- Back to Home »
- Stock »
- BIỂN QUÁI VẬT - (PHẦN 13) ANNABETH CỐ BƠI VỀ NHÀ
Posted by : admin
Thứ Ba, 28 tháng 1, 2014
13. ANNABETH CỐ BƠI VỀ NHÀ
Cuối cùng tôi cũng tìm được thứ mà
tôi thực sự thấy giỏi.
Con tàu Queen Anne’s Revenge đã đáp
lại từng mệnh lệnh của tôi. Tôi biết dây thừng nào để tời, cánh buồm nào cần
được kéo lên, hướng nào để lái. Chúng tôi rẽ sóng với vận tốc mà tôi đoán là
khoảng mười hải lý. Thậm chí tôi hiểu được nó nhanh như thể nào. Đối với một
con thuyền buồm, đi với vận tốc như thế này là cực kỳ nhanh.
Tất cả đều có cảm giác hoàn hảo –
gió vương trên mặt, những con sóng vỡ tung trước mũi thuyền.
Bây giờ chúng tôi đã thoát được khỏi
nguy hiểm, tất cả những gì tôi có thể nghĩ được là tôi nhớ Tyson nhiều như thế
nào và tôi lo lắng về Grover như thế nào.
Tôi không thể vượt qua được việc tôi
đã bị cư xử tệ như thể nào ở đảo Circe. Nếu không có Annabeth, tôi vẫn là một
loài gặm nhắm, trốn trong một chiếc xuồng với một bầy cướp biển lông thú xinh
xắn. Tôi nghĩ về điều mà Circe đã nói: Thấy chưa, Percy? Ngươi lộ ra con
người thật của chính mình!
Tôi cảm thấy có chút thay đổi. Không
chỉ vì tôi đột nhiên thèm được ăn rau diếp. Tôi cảm thấy hốt hoảng, như thể bản
năng là một động vật nhỏ bé sợ hãi giờ đây đã là một phần trong tôi. Hoặc có
thể nó đã luôn ở đó. Đây mới là điều khiến tôi thực sự lo lắng.
Chúng tôi đi suốt cả đêm.
Annabeth cố gắng giúp tôi trong việc
canh gác, nhưng con thuyền không đồng ý với cô ấy. Sau vài tiếng đồng hồ đung
đưa lên xuống, gương mặt cô ấy chuyển sang màu xanh của xốt guacamole(1) và cô
ấy buộc phải leo xuống nằm trên võng.
(1)
Một loại xốt làm từ trái bơ có nguồn gốc từ Mexico. Tên guacamole bắt nguồn từ
tiếng Aztec Nahuatl – ahuacatl (trái bơ) và malli (nước sốt). Mẹo để làm được
một guacamole cực ngon là chọn bơ ngon và đủ độ chín.(ND)
Tôi nhìn về đường chân trời. Lại hơn
một lần, tôi phát hiện ra lũ quái vật. Một chùm nước cao như một tòa nhà chọc
trời phun tung tóe trong ánh trăng. Một dây gai xanh trượt trên những con sóng
– có thứ gì đó như động vật bò sát, có lẽ phải dài tới ba mươi mét. Tôi thực sự
không muốn biết về nó.
Có lúc tôi nhìn thấy nữ thần biển –
các vị tiên nữ rực rỡ của biển cả. Tôi cố gắng vẫy tay về phía họ nhưng họ đã
biến mất trong vực thẳm, bỏ lại tôi với ngờ vực không rõ họ đã nhìn thấy tôi
chưa.
Quãng sau nửa đêm, Annabeth leo lên
boong tàu. Chúng tôi vừa đi qua một hòn đảo có núi lửa đang phun khói. Biển sôi
lên sùng sục và bốc hơi quanh bờ biển.
“Một trong những lò rèn của
Hephaestus,” Annabeth nói. “Nơi ông ta tạo nên những con quái vật kim loại.”
“Giống như lũ bò rừng ư?”
Cô ấy gật đầu. “Đi vòng qua nó, vòng
ra xa vào.”
Tôi không cần được nhắc nhở lần thứ
hai. Chúng tôi tránh xa hòn đảo và chẳng mấy chốc nó chỉ là một khoảnh đất đỏ
mù sương phía sau chúng tôi.
Tôi nhìn Annabeth. “Nguyên do khiến
cậu ghét người Cyclops nhiều như vậy… câu chuyện về việc Thalia thực sự bị chết
ra sao. Chuyện gì đã xảy ra?”
Rất khó để nhìn nét biểu cảm của cô
ấy trong bóng tối.
“Tớ nghĩ là cậu đáng được biết,”
cuối cùng cô ấy kết luận. “Cái đêm Grover hộ tống bọn tớ về trại, cậu ấy bị bối
rối và dẫn sai đường. Cậu có nhớ rằng cậu ấy đã từng kể cho cậu nghe về chuyện
này không?”
Tôi gật đầu.
“Ừ, con đường sai lầm tệ hại nhất đó
dẫn thẳng tới một cái hang của Cyclops ở Brooklyn.”
“Có người Cyclops ở Brooklyn sao?”
Tôi hỏi.
“Cậu sẽ không thể tin người Cyclops
có nhiều như thế nào đâu, nhưng đó không phải là vấn đề. Tên Cyclops này, hắn
đã lừa bọn tớ. Hắn sắp xếp tách bọn tớ ra ở dãy hàng lang mê cung trong một căn
nhà cũ ở Flatbush. Và hắn có thể giả được giọng của bất kỳ ai, Percy à. Giống
kiểu Tyson đã làm khi ở trên tàu Công chúa Andromeda. Hắn nhử bọn tớ cùng lúc.
Thalia nghĩ rằng cô ấy đang chạy tới cứu Luke. Luke lại nghĩ rằng anh ấy nghe
thấy tớ kêu cứu. Và tớ… tớ chỉ đang đứng một mình trong bóng tối. Tớ mới bảy
tuổi và thậm chí không thể tìm thấy vị trí của cánh cửa.”
Cô ấy đẩy một ít tóc ra khỏi mặt
mình. “Tớ nhớ ra cách tìm tới căn phòng chính. Có rất nhiều xương trên sàn nhà.
Và rồi, Thalía, Luke, Grover bị trói và bịt miệng, bị treo trên trần nhà như
những súc giăm bông hun khói. Tên Cyclops đó bắt đầu nhóm lửa lên ở giữa phòng.
Tớ rút con dao ra nhưng hắn đã nghe thấy tiếng của tớ. Hắn quay lại và mỉm
cười. Hắn nói và không biết bằng cách nào đó, hắn biết giọng của bố tớ. Tớ đoán
rằng hắn đã lấy nó ra từ trí nhớ của tớ. Hắn nói. “Nào, Annabeth, con đừng lo
lắng. Cha yêu con. Con có thể ở đây với cha. Con có thể ở đây mãi mãi.”
Tôi rùng mình. Cái cách mà cô ấy kể
ra chuyện này – thậm chí tới giờ, đã sáu năm rồi – vẫn làm tôi khiếp hãi hơn
bất kỳ câu chuyện ma nào mà tôi từng nghe. “Thế cậu đã làm gì?”
“Tớ đã đâm vào bàn chân hắn.”
Tôi nhìn cô ta chằm chằm. “Cậu đùa
đấy à? Cậu mới bảy tuổi và cậu đâm vào chân một gã Cyclops đã trưởng thành
sao?”
“Ừ, hắn suýt giết tớ. Nhưng tớ đã
làm hắn ngạc nhiên. Điều đó giúp tớ đủ thời gian để chạy tới chỗ Thalia và cắt
dây trói cho cô ấy. Và cô ấy làm tiếp những việc còn lại.”
“Ừ… nhưng vẫn… cực kỳ gan dạ,
Annabeth à.”
Cô ấy lắc đầu: “Bọn tớ chỉ đủ sống
sót thôi. Tớ vẫn còn gặp những cơn ác mộng, Percy à. Cái cách mà tên Cyclops đó
nói bằng giọng của bố tớ. Hắn ta đã khiến bọn tớ mất rất nhiều thời gian để về
trại. Tất cả lũ quái vật đang đuổi theo bọn tớ đã có đủ thời gian để theo kịp.
Đó là lý do thực sự khiến Thalia bị chết. Nếu không gặp phải tên Cyclops đó, cô
ấy vẫn còn sống tới tận ngày nay.”
Chúng tôi ngồi trên boong tàu, ngắm
nhìn chòm sao Heracles đang dần hiện lên trên bầu trời đêm.
“Cậu xuống bên dưới đi,” cuối cùng
Annabeth nói với tôi. “Cậu cần được nghỉ ngơi.”
Tôi gật đầu. Mắt tôi nặng trĩu.
Nhưng khi tôi xuống dưới và tìm thấy chiếc võng, tôi phải mất khá lâu mới có
thể ngủ thiếp đi. Tôi vẫn tiếp tục nghĩ về câu chuyện của Annabeth. Tôi tự hỏi
nếu mình là cô ấy, liệu tôi có đủ dũng cảm để thực hiện cuộc tìm kiếm này, chèo
thẳng tới cái hang của một tên Cyclops khác?
Tôi không mơ thấy Grover.
Thay vào đó, tôi tìm thấy mình quay
trở lại cabin của Luke trên con tàu Công chúa Andromeda. Những bức màn
đã được mở toang. Giờ đang vào ban đêm. Bầu không khí cứ xoay tít cùng những
chiếc bóng. Những giọng nói thì thầm quanh tôi – những linh hồn chết.
Hãy cẩn thận, họ thì thầm. Những cái bẫy. Lừa đảo.
Chiếc quan tài bằng vàng của Kronos
tỏa ánh sáng mờ nhạt – nguồn ánh sáng duy nhất trong căn phòng.
Một tràng cười lạnh lẽo khiến tôi
giật mình. Nó như thể đến từ hàng dặm bên dưới con tàu. Ngươi có lòng gan
dạ, chàng trai trẻ à. Ngươi không thể ngăn được ta.
Tôi biết điều tôi phải làm. Tôi phải
mở chiếc quan tài ra.
Tôi mở nắp cây Thủy Triều. Những
bóng ma xoay vòng quanh tôi như một cơn lốc xoáy. Hãy cẩn thận!
Trái tim tôi đập thình thịch. Tôi
không thể di chuyển được bước chân mình, nhưng tôi phải chặn đứng Kronos lại.
Tôi phải phá hủy thứ để trong chiếc quan tài đó.
Rồi một cô gái nói ngay sát bên tôi,
“Này, Óc Tảo Biển?”
Tôi nhìn sang, hy vọng được nhìn
thấy Annabeth nhưng cô gái đó lại không phải là Annabeth. Cô ta mặc bộ đồ kiểu
punk-style[11]
với xích bạc ở cổ tay. Cô ta có mái tóc đen bóng, đường viền mắt màu đen quanh
đôi mắt xanh và tàn nhang trên mũi. Nom cô ta khá thân thiện nhưng tôi không
dám chắc tại sao.
“Thế nào?” cô ta hỏi. “Chúng ta sẽ
đi ngăn chặn hắn lại hay không nào?”
Tôi không thể trả lời. Tôi không thể di chuyển.
Cô gái đảo mắt. “Thôi được. Để
chuyện đó cho tớ và Aegis.”
Cô ta vỗ nhẹ vào cổ tay và sợi xích
bạc của cô ta biến hình – phẳng ra và giãn ra thành một cái khiên lớn. Đó là
một cái khiên làm bằng bạc và đồng với những gương mặt gớm guốc của Medusa lồi
ra ở chính giữa. Nó giống như một mặt nạ của thần chết, cứ như thể chiếc đầu
thật của nữ thần tóc rắn đã bị ấn vào kim loại. Tôi không biết liệu đây có phải
đầu thật hoặc chiếc khiên có thể khiến tôi hóa đá ở đây không nhưng tôi vẫn
nhìn ra nơi khác. Tôi có cảm giác rằng một cuộc chiến thực sự, người mang chiếc
khiên này hầu như chẳng phải động tay động chân. Bất cứ kẻ thù nào còn tỉnh táo
cũng sẽ quay đầu lại và bỏ chạy.
Cô gái rút thanh kiếm của mình ra và
tiến về phía chiếc quan tài. Bóng của những con ma tự động rẽ ra nhường đường
cho cô ta, chạy tán loạn trước luồng khí khủng khiếp tỏa ra từ chiếc khiên của
cô ta.
“Đừng làm thế,” tôi cố cảnh báo cô
ta,
Nhưng cô ta không nghe được tiếng
tôi. Cô ta tiến thẳng đến chiếc quan tài và đẩy nắp quan tài vàng sang một bên.
Cô ta đứng đó trong giây lát, nhìn
chằm chằm xuống vật trong quan tài.
Chiếc quan tài bắt đầu rực sáng lên.
“Không.” Giọng cô gái run rẩy. “Nó
không thể là ...”
Từ sâu dưới đáy đại dương, Knonos
cười to đến mức cả con tàu rung lên.
“Không!” Cô gái hét lên khi chiếc
quan tài như nuốt chửng cô ta vào trong một luồng ánh sáng vàng.
“Ah!” Tôi ngồi bật dậy thẳng đứng
trên chiếc võng.
Annabeth đang ra sức lay tôi.
“Percy, cậu đang gặp một cơn ác mộng đấy. Cậu cần phải tỉnh dậy ngay thôi.”
“C-cái gì cơ?” Tôi dụi mắt. “Có
chuyện gì không ổn à?”
Tôi khó có thể nhận ra hòn đảo này
ngày phía trước chúng tôi – nó chỉ là một cái chấm đen nhỏ trong sương mù.
“Tớ muốn nhờ cậu giúp một việc,”
Annabeth nói. “Ba chị em nhà Siren... chúng ta đi vào khu vực có thể nghe rõ
tiếng hát của họ.”
Tôi nhớ đến những câu chuyện về Ba
chị em nhà Siren. Giọng hát của họ quá ngọt ngào đến nỗi đã làm các thủy thủ mê
mẩn và cám dỗ họ tới chết.
“Không sao đâu,” tôi quả quyết.
“Chúng ta có thể bịt chặt tai chúng ta lại. Có một bình lớn sáp nến ở dưới
boong...”
“Tớ muốn nghe họ hát cơ.”
Tôi chớp mắt kinh ngạc. “Tại sao?”
“Mọi người đều nói rằng Ba chị em
nhà Siren hát lên sự thật về điều mà cậu khao khát. Họ nói cho cậu biết mọi thứ
về bản thân cậu, những điều mà thậm chí chính cậu cũng không thể nhận ra. Điều
đó quá hấp dẫn. Nếu cậu còn sống sót...cậu sẽ trở thành một nhà thông thái. Tớ muốn
nghe họ hát. Cách bao lâu tớ mới có được một cơ hội như vậy?”
Đối với phần lớn mọi người, điều này
không có ý nghĩa gì. Nhưng Annabeth đúng như con người cô ấy - ừm, nếu cô ấy có
thể chiến đấu với những cuốn sách kiến trúc Hy Lạp cổ đại và thưởng thức những
bộ phim tài liệu trên Kênh History, thì tôi đoán rằng ba chị em nhà Siren cũng
hấp dẫn cô ấy.
Cô ấy nói cho tôi về kế hoạch của
mình. Tôi miễn cưỡng giúp cô ấy chuẩn bị.
Ngay khi bờ biển bằng đá của hòn đảo
hiện ra tầm mắt, tôi ra lệnh cho một trong những sợi dây thừng quấn quanh vòng
eo của Annabeth, rồi buộc chặt cô ấy vào cột buồm mũi.
“Đừng có thả tớ ra nhé,” cô ấy
kêu lên, “cho dù có xảy ra việc gì hoặc tớ cầu xin nhiều như thế nào. Tớ sẽ
muốn trực tiếp chịu đựng sự hành hạ về tinh thần và lao mình xuống.”
“Cậu đang cố lôi kéo tớ đấy à?”
“Ha ha...”
Tôi hứa sẽ đảm bảo an toàn cho cô
ấy. Rồi tôi lôi ra miếng sáp nến thật to, nặn chúng lại thành nút nhét tai và
nhét ngay vào tai.
Annabeth gục gục đầu đầy châm biếm,
để tôi biết bằng nút nhét tai của tôi giờ đây là một lời tuyên bố chân chính về
thời trang. Tôi nhăn mặt làm trò cười với cô ấy và quay trở lại với bánh lái
tàu.
Sự im lặng thật kỳ quái. Tôi không
thể nghe thấy thứ gì ngoại trừ tiếng đập gấp gáp của dòng máu vang lên trong
đầu tôi. Khi chúng tôi tới được đảo, những khối đá lởm chởm đã hiện ra lờ mờ
khỏi màn sương. Tôi buộc chiếc Queen Anne’s Revenge đi vòng quanh chúng.
Nếu chúng tôi đến gần chúng hơn, những tảng hòn đá sẽ xé vụn thân tàu của chúng
tôi như những lưỡi dao của máy xay sinh tố.
Tôi liếc nhìn về phía sau. Thoạt
đầu, Annabeth nom vẫn hoàn toàn bình thường. Rồi cô ấy có một cái nhìn bối rối
trên mặt. Mắt cô mở lớn.
Cô ấy căng thẳng như muốn thoát khỏi
sợ dây thừng. Cô ấy gọi tên tôi – tôi có thể nói điều đó nhờ việc đọc đôi môi
cô ấy. Nét mặt cô ấy quá rõ ràng: cô ấy phải thoát khỏi điều đó. Đó là cuộc
sống hay cái chết. Tôi phải giải thoát cô ấy ra khỏi đám dây thừng ngay bây
giờ.
Cô ấy dường như quá khổ sở khiến tôi
không thể cắt dây giải thoát cho cô ấy.
Tôi buộc mình phải nhìn đi nơi khác.
Tôi giục chiếc tàu Queen Anne’s Revenge phải đi nhanh hơn.
Tôi vẫn không thể nhìn thấy gì nhiều
về hòn đảo – chỉ toàn sương mù và đá – nhưng dập dờn trên mặt nước là những
mảnh gỗ và sợi thủy tinh, các mảnh vụn của những chiếc tàu cũ kĩ, thậm chí là
vài chiếc nệm máy bay nổi bồng bềnh.
Làm thế nào mà âm nhạc có thể khiến
bao nhiêu sinh mạng phải xoay chuyển nhỉ? Ý tôi là, tôi thừa nhận có một số ca
khúc trong bảng xếp hạng Top Forty khiến tôi muốn nhảy bổ nhào ra khỏi máy bay,
nhưng vẫn chỉ là ... Ba chị em nhà Siren có thể hát về điều gì?
Trong một khoảnh khắc cực kì nguy
hiểm, tôi hiểu được tính hiếu kỳ của Annabeth. Tôi muốn được tháo nút nhét tai
ra khỏi tai, chỉ để thưởng thức ca khúc. Tôi có thể cảm nhận được tiếng hát của
Ba chị em nhà Siren ngân lên trong những thớ gỗ của con tàu, dao động cùng với
tiếng gào thét của máu trong tai tôi.
Annabeth đang nài nỉ tôi. Những dòng
nước mắt tuôn rơi trên gò má cô ấy. Cô ấy giẫy dụa với đám dây thừng như thể
chúng đang giữ cô ấy khỏi mọi thứ mà cô ấy quan tâm.
Sao cậu có thể tàn nhẫn như vậy? cô ấy như thể đang cầu xin tôi. Tớ
biết cậu là bạn tớ mà.
Tôi nhìn chằm chằm vào hòn đảo đầy sương mù. Tôi muốn mở nắp cây kiếm của mình,
nhưng chẳng có gì để chiến đấu. Bạn có thể tấn công một bài hát như thế nào?
Tôi cố gắng hết sức để không nhìn Annabeth. Tôi cố làm điều đó trong khoảng
thời gian năm phút.
Đó là sai lầm lớn của tôi.
Khi tôi không thể chịu đựng được lâu
hơn, tôi quay đầu nhìn lại và thấy... một đống dây thừng đã bị cắt. Cột buồm
trống trơn. Con dao đồng của Annabeth nằm trên sàn. Không biết bằng cách nào,
cô ấy đã tuồn được nó vào tay mình. Tôi đã quên mất không tước hẳn vũ khí của
cô ấy.
Tôi vội lao về phía một mạn tàu và
nhìn cô ấy đang bơi điên cuồng về phía đảo. Những cơn sóng đưa cô ấy lao thẳng
tới những tảng đá lởm chởm.
Tôi hét lên gọi tên cô ấy. Nhưng dẫu
cô ấy có nghe thấy tôi, cũng chả có tác dụng gì tốt đẹp. Cô ấy đã bị mê hoặc và
đang bơi tới cái chết.
Tôi nhìn về chỗ bánh lái và kêu lên:
“Đứng yên ở đây!”
Rồi tôi nhảy vào biển từ mạn thuyền.
Tôi xé mặt nước và lao sâu xuống và
buộc những dòng nước quấn quanh người tôi, tạo nên một dòng nước phun bắn vọt
tôi về phía trước.
Tôi vọt lên mặt nước và phát hiện
thấy Annabeth, những một cơn sóng đã túm chặt lấy và cuốn cô ấy về phía giữa
hai tảng đá có cạnh sắc như dao cạo.
Tôi không có lựa chọn nào khác. Tôi
lao theo sau cô ấy.
Tôi lặn xuống dưới thân một chiếc du
thuyền bị đắm, len lỏi qua một bộ sưu tầm những quả bóng kim loại trôi nổi trên
dây xích mà sau đó tôi nhận ra là những trái mìn. Tôi phải dùng tất cả sức mạnh
của mình đối với nước để tránh không bị va đập vào các tảng đá hoặc bị mắc vào
những cuộn dây thép gai được căng ra chỉ bên dưới mặt nước.
Tôi được phun vọt giữa hai lớp răng
cửa nhọn vắt của hai tảng đá và phát hiện thấy mình đang ở trong một cái vịnh
hình bán nguyệt. Nước bị giữ lại bởi rất nhiều khối đá, các mảnh vụn của các
con tàu và những quả mìn đang nổi trên mặt nước. Trên bãi biển đầy cát đen núi
lửa.
Tôi nhìn quanh để tìm kiếm Annabeth.
Cô ấy ở kia.
Không biết may mắn hay không, cô ấy
bơi rất giỏi. Cô ấy vượt qua lớp mìn và những tảng đá. Cô ấy đã gần tới được
bãi biển đen kia.
Rồi màn sương mù tan ra và tôi nhìn
thấy họ - Ba chị em nhà Siren.
Hãy tưởng tượng một bầy kền kền có
kích thước bằng con người – với bộ lông chim bẩn thỉu đen đúa, những móng vuốt
màu xám và những chiếc cổ màu hồng nhăn nhúm lại. Giờ hãy tưởng tượng những
chiếc đầu người được gắn vào phía trên chiếc cổ đó, nhưng những chiếc đầu đó
lại liên tục biến đổi.
Tôi không thể nghe rõ họ nói gì,
nhưng tôi có thể nhìn thấy họ đang hát. Khi miệng họ chuyển động, gương mặt họ
biến thành những người mà tôi biết – mẹ tôi, thần Poseidon, Grover, Tyson, bác
Chiron. Tất cả những người mà tôi đều muốn gặp. Họ cười động viên, bảo tôi tiến
lên phía trước. Nhưng dù họ biến thành hình gì đi nữa, mồm miệng họ cũng trơn
trơn đầy mỡ và đóng kết lại bởi thức ăn thừa còn sót lại. Giống như lũ chim kền
kền, họ ăn bằng cách vục cả khuôn mặt của mình vào đồ ăn và nom không hề giống
như họ vừa mới dự tiệc ở của tiệm bánh Donut Quái vật tí nào.
Annabeth bơi về phía họ.
Tôi biết mình không thể để cô ấy rời
khỏi mặt nước. Đại dương là lợi thế duy nhất của tôi. Nó luôn luôn bảo vệ tôi
bằng cách này hay cách khác. Tôi đẩy người về phía trước và chộp lấy mắt cá
chân của cô ấy.
Đúng lúc chạm vào cô ấy, một cơn sốc
nhẹ lan khắp cơ thể tôi. Và tôi nhìn Ba chị em nhà Siren theo cách mà Annabeth
ắt phải đang nhìn họ.
Ba người ngồi trên một chiếc khăn
trải picnic ở Central Park. Một bữa tiệc đã trải dài trước mặt họ. Tôi nhận ra
cha của Annabeth từ những bức hình mà cô ấy đã cho tôi xem – đó là người đàn
ông nom khá thể thao, với mái tóc màu vàng nhạt ở tuổi bốn mươi. Ông đang cầm
tay một người phụ nữ xinh đẹp nom rất giống Annabeth. Bà ta ăn bận giản dị -
quần jeans xanh, áo sơ mi bằng vải denim và giày leo núi – nhưng có thứ gì đó
phát ra sức mạnh từ người phụ nữ này. Tôi biết mình đang nhìn thấy nữ thần Athena.
Ngồi kế bên họ là một chàng trai trẻ... Luke.
Toàn bộ cảnh này tỏa trong một thứ
ánh sáng ấm áp và ngọt ngào. Ba người họ đang nói chuyện và cười vui vẻ. Và khi
họ nhìn thấy Annabeth, gương mặt họ tươi cười vui sướng. Bố mẹ Annabeth đưa tay
ra chào đón. Luke cười toe toét và ra hiệu cho Annabeth tới ngồi cạnh anh ấy –
như thể anh ấy chưa bao giờ phản bội cô, như thể anh ấy vẫn còn là bạn của cô
ấy.
Phía sau những hàng cây của Central
Park, cảnh quan thành phố xuất hiện. Tôi nín thở vì đó là Manhattan, nhưng không
phải là Manhattan. Nó đã được xây dựng lại hầu như toàn bộ bằng đá cẩm
thạch trắng sáng chói, thậm chí còn lớn hơn, đồ sộ hơn với những cửa sổ bằng
vàng và những khu vườn trên mái nhà. Nó tuyệt vời hơn New York. Tuyệt vời hơn
cả đỉnh Olympus.
Tôi lập tức hiểu ngay rằng Annabeth
đã thiết kế nên tất cả. Cô ấy là kiến trúc sư cho cả thế giới mới. Cô ấy đã cứu
được Luke. Cô ấy đã làm tất cả những gì mà cô ấy từng mong muốn.
Tôi nhắm chặt mắt lại. Khi tôi mở
mắt ra, tất cả những gì tôi nhìn thấy là Ba chị em nhà Siren – những con kền
kền tả tơi với bộ mặt người, đang chuẩn bị xơi tái thêm một nạn nhân nữa.
Tôi kéo Annabeth quay trở lại con
sóng. Tôi không thể nghe thấy, nhưng tôi có thể nói rằng cô ấy đang la hét. Cô
ấy đạp vào mặt tôi nhưng tôi cứ giữ chặt.
Tôi bắt các dòng nước đưa chúng tôi
ra khỏi vịnh. Annabeth đấm thùm thụp và đá vào người tôi, làm tôi khó tập trung
được. Cô ấy quẫy đạp nhiều tới mức tôi suýt đụng phải một quả mìn đang trôi.
Tôi không biết phải làm gì. Tôi sẽ không thể trở về con tàu còn nguyên lành nếu
cô ấy cứ tiếp tục đánh tôi như vậy.
Chúng tôi lặn xuống dưới và Annabeth
ngừng vật lộn. Vẻ mặt cô ấy trông bối rối. Nhưng khi đầu chúng tôi vừa thò lên
khỏi mặt nước, cô ấy lại bắt đầu đánh tôi.
Nước! Âm thanh truyền đi không được
tốt dưới nước. Nếu tôi có thể dìm cô ấy đủ lâu, tôi có thể phá bỏ sự ảnh hưởng
của nó với Annabeth. Tất nhiên Annabeth sẽ không thở được, nhưng vào lúc này,
việc đó dường như không còn quan trọng.
Tôi túm chặt lấy eo cô ấy và yêu cầu
sóng đẩy chúng tôi xuống bên dưới.
Chúng tôi được bắn thẳng xuống vực –
ba mét, rồi sáu mét. Tôi biết tôi phải rất cẩn thận vì tôi có thể chịu đựng
được nhiều áp lực hơn so với Annabeth. Cô ấy chống trả và cựa quậy để thở khi
bong bóng nổi lên quanh chúng tôi.
Bong bóng.
Tôi tuyệt vọng. Tôi phải giữ cho
Annabeth được sống. Tôi tưởng tượng ra tất cả những bong bóng trong đại dương –
luôn luôn nổi sóng, trào dâng. Tôi tưởng tượng chúng đang cùng nhau tiến về
phía tôi.
Biển cả nghe theo lời tôi. Có một
cơn gió mạnh màu trắng, một cảm giác mơn trớn vây quanh lấy tôi. Và khi tầm
nhìn của tôi rõ ràng, Annabeth và tôi có được một bong bóng khí lớn vây quanh.
Chỉ có chân chúng tôi vẫn ở dưới nước.
Cô ấy thở hổn hển và ho khan.
Toàn thân cô ấy run bắn nhưng khi cô ấy nhìn tôi, tôi biết bùa mê đã bị phá
tan.
Cô ấy bắt đầu khóc nức nở - ý tôi là
tiếng nức nở thảm thiết, xé ruột. Cô ấy tựa đầu lên vai tôi và tôi ôm cô ấy.
Lũ cá tụ tập nhìn chúng tôi – đó là
một bầy cá nhồng và một vài con cá maclin tò mò.
Biến! Tôi nói với chúng.
Chúng bơi đi, nhưng tôi có thể nói
rằng chúng rất miễn cưỡng khi bỏ đi. Tôi thề rằng tôi hiểu được ý định của
chúng. Chúng định bắt đầu đi loan tin khắp đại dương rằng con trai của thần
Poseidon và cô gái nào đó ở bên dưới đáy của Vịnh Siren.
“Tớ phải đưa chúng ta quay về tàu,”
tôi nói với cô ấy. “Ổn thôi, cậu chỉ cần bám vào nhé.”
Annabeth gật đầu để tôi biết giờ đây
cô ấy đã khá hơn. Nhưng cô ấy lẩm bẩm điều gì đó mà tôi không thể nghe được vì
sáp nến vẫn còn trong tai tôi.
Tôi bảo dòng nước lái chiếc tàu ngầm
không khí nhỏ bé kỳ lạ của chúng tôi qua những tảng đá và dây thép gai, quay
lại thân tàu chiếc Queen Anne’s Revenge – chiếc đang duy trì tốc độ chạy
chậm và ổn định rời khỏi hòn đảo.
Chúng tôi ở dưới nước, theo sau con
tàu, mãi cho tới khi tôi đoán rằng chúng tôi đã ra khỏi tầm nghe của Ba chị em
nhà Siren. Sau đó tôi nổi trên mặt nước và bong bóng không khí của chúng tôi nổ
tung.
Tôi yêu cầu một cái thang dây rơi
xuống từ một bên hông chiếc thuyền và chúng tôi trèo lên.
Tôi vẫn giữ nút nhét tai, chỉ là để
cho chắc chắn. Chúng tôi lái tàu đi cho tới khi hòn đảo hoàn toàn thoát khỏi
tầm nhìn. Annabeth ngồi co người lại trong một tấm chăn ở phía mũi tàu. Cuối
cùng cô ấy nhìn lên, bàng hoàng và buồn bã, nói to, An toàn rồi.
Tôi bỏ nút nhét tai ra. Không còn
tiếng hát nữa. Buổi chiều hoàn toàn yên bình trừ tiếng sóng vỗ vào mạn tàu.
Sương mù tan biến đi lộ ra bầu trời xanh ngắt, như thể hòn đảo của Ba chị em
nhà Siren chưa bao giờ tồn tại.
“Cậu có sao không?” tôi hỏi. Vừa nói
ra, tôi nhận thấy câu hỏi đó nghe mới khập khiễng làm sao. Tất nhiên cô ấy
không ổn.
“Tớ đã không nhận ra,” cô ấy thì
thầm.
“Cái gì cơ?”
Đôi mắt cô ấy có cùng màu như khi
sương mù bao phủ lên khắp hòn đảo của Ba chị em nhà Siren. “Sự cám dỗ có sức
mạnh lớn như thế nào.”
Tôi không muốn thú nhận rằng tôi đã
nhìn thấy điều mà Ba chị em nhà Siren đã hứa hẹn với cô ấy. Tôi có cảm giác như
một kẻ phạm tội. Nhưng tôi nghĩ rằng tôi phải nói với Annabeth về điều này.
“Tớ đã nhìn thấy cách cậu xây dựng
lại Manhattan,” tôi nói với cô ấy. “Cả Luke và bố mẹ cậu nữa.”
Cô ấy đỏ mặt. “Cậu đã thấy điều đó
à?”
“Điều mà Luke đã nói với cậu trước
đây trên con tàu Công chúa Andromeda, về việc bắt đầu thế giới lại từ con số
không... nó thực sự đúng với cậu, nhỉ?”
Cô ấy kéo chăn lên quanh mình. “Sai
lầm chí tử của mình. Đó là những thứ mà Ba chị em nhà Siren đã chỉ ra cho mình.
Sai lầm chí tử của mình chính là quá ngạo mạn.”
Tôi chớp chớp mắt. “Cái đống nâu nâu
mà họ rải trên bánh sanwiches toàn rau à?”
Cô ấy đảo mắt. “Không phải. Óc Tảo
Biển. Cái đó gọi là hummus – một thứ sền sệt được làm bằng đậu xanh, hạt
vừng và tỏi. Còn từ mà tớ nói thì tệ hơn rất nhiều.”
“Còn có thứ gì tồi tệ hơn cả hummus
nhỉ?”
“Từ tớ nói đến có nghĩa là hết sức
kiêu ngạo, Percy à. Nghĩ rằng cậu có thể làm được những việc còn tốt hơn người
khác... thậm chí tốt hơn cả thần thánh.”
“Cậu nghĩ vậy sao?”
Cô ấy nhìn xuống. “Thế cậu đã bao
giờ nghĩ, cái gì sẽ xảy ra nếu thế giới này thực sự bị phá hủy? Cái gì
sẽ xảy ra nếu chúng ta có thể xây dựng lại nó từ đầu? Không còn chiến
tranh nữa. Không có ai bị vô gia cư. Không có bài tập đọc trong mùa hè nữa.”
“Tớ đang nghe đây.”
“Ý tớ là, phương Tây đại diện cho
rất nhiều thứ tốt đẹp mà loài người từng làm – đó là lý do tại sao lửa vẫn đang
cháy. Đó là lý do tại sao đỉnh Olympus vẫn còn ở quanh đây. Nhưng đôi khi cậu
chỉ có thể nhìn thấy những thứ tồi tệ, cậu hiểu không? Và cậu bắt đầu nghĩ theo
cách của Luke: ‘Nếu tôi có thể giật đổ nó, rồi sẽ làm cho nó tốt hơn.’ Cậu chưa
bao giờ nghĩ như vậy sao? Như thể cậu có thể làm được một việc tốt hơn nếu cậu
điều khiển cả thế giới?”
“Ừm... không. Tớ mà điều hành cả thế
giới thì có khác gì cơn ác mộng.”
“Thế thì cậu may mắn. Sự ngạo mạn
không phải là sai lầm chí tử của cậu.”
“Đó là cái gì?”
“Tớ không biết, Percy à. Nhưng tất
cả anh hùng đều có một cái như thế. Nếu cậu không phát hiện ra và học cách chế
ngự nó... ừm, họ sẽ không gọi nó là “chí tử” mà không có ý gì đó.”
Tôi nghĩ về điều đó. Chính xác thì
nó không làm tôi vui lên nổi.
Tôi chú ý thấy Annabeth không nói
nhiều về những điều riêng tư mà cô ấy sẽ thay đổi – như giúp bố mẹ quay lại với
nhau, hoặc cứu Luke chẳng hạn. Tôi hiểu điều này. Tôi không muốn thú nhận rằng
không biết bao nhiêu lần tôi đã mơ thấy bố mẹ mình quay lại với nhau.
Tôi đã hình dung ra mẹ tôi cô độc
trong căn hộ nhỏ xíu của chúng tôi ở Upper East Site như thế nào. Tôi cố gắng
nhớ lại cái mùi những chiếc bánh quế màu xanh của bà trong bếp. Chúng dường như
đã xa vời.
“Thế nó có đáng giá không?” tôi hỏi
Annabeth. “Cậu có cảm thấy... thông thái hơn không?”
Cô ấy nhìn xa xăm. “Tớ không chắc
nữa. Nhưng chúng ta phải cứu trại. Nếu chúng ta không chặn được
Luke...”
Cô ấy không cần phải nói hết. Nếu
cách nghĩ của Luke thậm chí có thể lôi kéo được Annabeth thì chẳng thể nói được
có bao nhiêu đứa con lai khác sẽ gia nhập cùng hội của anh ta.
Tôi nghĩ về giấc mơ của mình liên
quan tới cô gái lạ và chiếc quan tài vàng. Tôi không dám chắc nó mang ý nghĩa
gì nhưng tôi có cảm giác rằng tôi đang bỏ lỡ điều gì đó. Điều gì thật kinh
khủng mà Kronos đang lên kế hoạch. Cô gái đó đã nhìn thấy gì khi mở nắp quan
tài nhỉ?
Đột nhiên mắt Annabeth mở to ra.
“Percy.”
Tôi quay lại.
Phía trước là một gò đất khác – một
hòn đảo hình yên ngựa với những đồi rừng và những bờ biển trắng, những bãi cỏ
xanh mướt – giống hệt như tôi từng nhìn thấy trong các giấc mơ.
Những giác quan hàng hải của tôi đã
khẳng định chúng. Ba mươi độ, ba mươi mốt phút Bắc, bảy mươi lăm độ, mười hai
phút Tây.
Chúng tôi đã tới nhà của Cyclops.