- Back to Home »
- Ỷ THIÊN ĐỒ LONG KÝ - CHƯƠNG 1
Posted by : admin
Thứ Hai, 27 tháng 1, 2014
THIÊN
NHAI TƯ QUÂN BẤT KHẢ VONG
Chữ
tình buộc lấy chữ sầu,
Chân
trời góc biển tìm đâu bây giờ
Xuân
du hạo đãng, thị niên niên hàn thực, lê hoa thời tiết.
Bạch
cẩm vô văn hương lạn mạn, ngọc thụ quỳnh bao đôi tuyết.
Tĩnh
dạ trầm trầm, phù quang ái ái, lãnh mạn dung dung nguyệt.
Nhân
gian thiên thượng, lạn ngân hà chiếu thông triệt.
Hồn
tự cô xạ chân nhân, thiên tư linh tú, ý khí thù cao khiết.
Vạn
nhị sâm sai thùy tín đạo, bất dữ quần phương đồng liệt.
Hạo
khí thanh anh, tiên tài trác lạc, hạ thổ nan phân biệt.
Dao
đài qui khứ, động thiên phương khán thanh tuyệt.
Tiết
trời lạnh hoa lê đang rộ,
Khách
nhàn du lãng đãng chơi xuân.
Hương
thơm bay tỏa không gian,
Cành
cây trắng xóa lộc non nở đầy.
Ánh
trăng lạnh canh khuya thanh tĩnh,
Chiếu
trên cao thấp thoáng sông ngân.
Tâm
tình một vẻ miên man,
Trời
cho tính khí cao sang vẻ người.
Chen
lẫn vẻ muôn hoa rực rỡ,
Vẻ
thanh cao vẫn tự vươn cao.
Thanh
anh trác lạc hơn người,
Dẫu
trong ngọc đá có chiều nọ kia.
Dao
đài ai kẻ đi về,
Hương
trời đôi lứa đã kề bên nhau.
Bài từ “Vô Tục Niệm” này vốn là của
một vị võ học danh gia, cũng là một đạo sĩ ở vào cuối đời Nam Tống họ Khưu tên
Xứ Cơ, đạo hiệu Trường Xuân Tử. Ông là một trong Toàn Chân thất tử và là nhân
vật xuất sắc của phái Toàn Chân. Trong “Từ Phẩm” đã bình về bài từ này như sau:
“Trường Xuân, người đời vẫn coi
là một vị tiên, nên lời từ mới hay và xuất sắc đến thế”
Bài từ tuy nói về hoa lê, nhưng thật
ra chính là để ca tụng một thiếu nữ xinh đẹp mặc áo trắng, coi nàng "thực
không phải người phàm, thiên tư linh tú, khí độ cao khiết", lại nói
nàng "hạo khí thanh anh, tiên tài trác lạc", "bất dĩ
quần phương đồng liệt" (không giống như những người khác). Người con
gái đẹp mô tả trong bài từ này, chính là truyền nhân của phái Cổ Mộ, Tiểu Long
Nữ. Nàng vốn ưa mặc đồ trắng, chẳng khác gì gió thổi qua cây ngọc, đóa quỳnh nở
trong tuyết, chỉ hiềm tính khí lạnh lùng, nên mới tả hình dung là “lãnh mạn
dung dung nguyệt”. Khưu Xứ Cơ tặng nàng ba chữ “Vô Tục Niệm” thật mười phần
xác đáng.
Trường Xuân Tử Khưu Xứ Cơ ở ngay bên
cạnh nàng tại Chung Nam Sơn, một lần gặp mặt nên viết ra bài từ này. Lúc bấy
giờ Khưu Xứ Cơ tạ thế đã lâu, Tiểu Long Nữ cũng đã làm vợ Thần Điêu đại hiệp
Dương Quá.
Trên sơn đạo núi Thiếu Thất, tỉnh Hà
Nam, có một thiếu nữ, đang cúi đầu lẩm nhẩm bài từ này. Cô gái ước chừng mười
tám, mười chín tuổi, mặc áo màu vàng nhạt, cưỡi một con lừa đen, đi chầm chậm
lên núi, vừa đi vừa nghĩ thầm: “Chỉ có người như Long tỉ tỉ mới xứng đáng lấy
được chàng mà thôi”.
Chữ “chàng” hiển nhiên là nói đến
Thần Điêu đại hiệp Dương Quá. Cô gái lỏng dây cương, cứ để cho con lừa tự ý,
thẳng đường lên núi. Một lúc lâu sau, cô lại lẩm bẩm: “hoan lạc thú, ly biệt
khổ, tựu trung cánh hữu si nhi nữ. Quân ứng hữu ngữ, diểu vạn lý tằng vân,
thiên sơn mộ tuyết, chích ảnh hướng thùy khư?”
Gặp
nhau lòng những vui vầy,
Xa
nhau dạ những luống đầy khổ đau.
Cõi
tình mê đắm ai đâu?
Chim
kia thiếu bạn tiếng sầu lẻ loi.
Từng
mây muôn dặm xa xôi,
Núi
cao tuyết trắng nơi nơi cũng là.
Một
mình cô tịch gần xa,
Trăm
năm bến cũ biết là về đâu?
Cô gái lưng đeo đoản kiếm, sắc mặt
có nhuốm đôi chút phong trần, hiển nhiên đã viễn du lâu ngày. Gương mặt xinh
tươi, đang ở vào tuổi vô tư lự, nhưng sao dung nhan như có gì muộn phiền, đầu
mày cuối mắt không thể che dấu được.
Nàng họ Quách, tên chỉ có một chữ
Tương, chính là con thứ của đại hiệp Quách Tĩnh và nữ hiệp Hoàng Dung, còn có
ngoại hiệu là Tiểu Đông Tà. Nàng một lừa, một kiếm, lang thang một mình, những
tưởng phiền muộn trong lòng vơi đi, ai ngờ sầu lại thêm sầu, nơi danh sơn lẻ
bóng lại càng hiu quạnh.
Núi Thiếu Thất thuộc tỉnh Hà Nam
cũng khá cao, đường lên núi là những bậc thang bằng đá rộng rãi, qui mô lớn
lao, công trình không phải nhỏ, là do vua Đường Thái Tông đến thăm chùa Thiếu
Lâm mà bỏ ra tạo dựng, dài cả thảy tám dặm. Quách Tương cưỡi lừa uể oải trèo
lên, thấy trước mặt từ ngọn trên núi ào ào đổ xuống năm dòng thác tung tóe như
ngọc, lại nhìn những ngọn núi khác chỉ nhỏ như đàn kiến. Theo đường sơn đạo
chuyển vào một khúc quanh, thì thấy một tòa tự viện tường vàng ngói xanh.
Nàng đứng ngắm dãy chùa một hồi,
nghĩ thầm: “Thiếu Lâm tự vốn là nguồn gốc võ học của thiên hạ, nhưng sao hai kỳ
luận kiếm Hoa Sơn, trong số ngũ tuyệt không thấy cao tăng nào của chùa Thiếu
Lâm cả? Không lẽ hòa thượng trong chùa không tài cán gì, sợ mất uy danh, nên
không dám phó hội? Hay là tăng lữ tu hành tinh thâm, không còn tham luyến hư
danh, võ công tuy cao, nhưng không muốn tranh cường đổ thắng với người ngoài?”.
Nàng xuống lừa, lững thững đến trước
cửa chùa, chỉ thấy cây cối rậm rạp, bóng râm che phủ một khu rừng bia. Bia đá
quá nửa đã bị hủy phá, nét chữ mơ hồ, không biết viết những gì. Nàng nghĩ thầm:
“Chữ khắc sâu trên đá, theo năm tháng cũng mòn, thế nhưng sao những gì khắc
trong tim ta, thời gian càng lâu càng sâu đậm?”.
Chợt thấy một tấm bia lớn khắc việc
Đường Thái Tông ban cho chùa Thiếu Lâm ngự trát, khen tăng nhân về việc lập
công trừ loạn. Trong bia nói là khi Đường Thái Tông còn là Tần Vương, đem binh
đánh Vương Thế Sung, hòa thượng chùa Thiếu Lâm đầu quân, xuất sắc nhất có cả
thảy mười ba người. Trong số đó chỉ có Đàm Tông nhận phong làm Đại Tướng Quân,
còn mười hai người còn lại không muốn làm quan, Đường Thái Tông ban cho mỗi
người một áo cà sa bằng lụa tía. Nàng tưởng tượng ngay từ thời Tùy Đường mà võ
công chùa Thiếu Lâm đã danh vang thiên hạ, mấy trăm năm nay lại càng thêm tinh
xảo, không biết trong chùa có bao nhiêu ngọa hổ tàng long.
Quách Tương từ khi chia tay với vợ
chồng Dương Quá, Tiểu Long Nữ ở trên đỉnh Hoa Sơn tới giờ đã ba năm không nghe
chút tin tức gì của hai người. Trong lòng mong nhớ, nàng thưa với cha mẹ, nói
là muốn đi ngao du sơn thủy, nhưng thực ra là để nghe ngóng tin tức của Dương
Quá. Nàng thực tâm cũng chẳng cần phải gặp mặt cặp vợ chồng này, chỉ cần nghe
tin họ hành hiệp ra sao cũng đã thỏa mãn. Thế nhưng từ khi từ biệt, hai người
không lộ diện giang hồ, chẳng biết ẩn cư nơi nào. Thành thử Quách Tương đi từ
bắc xuống nam, lại từ đông sang tây, tưởng chừng đã đặt chân quá nửa đất trung
nguyên, thủy chung vẫn không nghe thấy ai nói đến Thần Điêu đại hiệp Dương Quá
cả.
Một hôm nàng đến đất Hà Nam, chợt
nhớ ra chùa Thiếu Lâm có một nhà sư tên Vô Sắc là bạn thân của Dương Quá, hồi
mình sinh nhật mười sáu tuổi, nể mặt họ Dương nên ông đã sai người đem tặng một
món quà. Tuy chưa bao giờ gặp mặt nhà sư này nhưng cũng nên lên hỏi thử một
câu, biết đâu ông ta lại rõ tung tích của hai người. Vì thế Quách Tương mới lên
chùa Thiếu Lâm.
Đang lúc xuất thần, bỗng nghe thấy
từ chòm cây bên cạnh rừng bia truyền ra tiếng leng keng, loảng xoảng và tiếng
người niệm kinh Phật:
Thị thời Dược Xoa cộng vương lập
yếu, tức ư vô lượng bách thiên vạn ức đại chúng chi trung, thuyết thắng diệu
già tha viết: do ái cố sinh ưu, do ái cố sinh bố; nhược li ư ái giả, vô ưu diệc
vô bố...[1]
(Khi đó Thế Tôn đứng giữa thiên vạn
ức người mà giảng rằng: Vì yêu mà sinh ra buồn phiền, vì yêu mà sinh ra sợ hãi,
nếu như dứt được yêu, chẳng buồn cũng chẳng sợ...)
Quách Tương nghe bốn chữ kệ đó, bỗng
thấy ngơ ngẩn, trong lòng cũng nhẩm theo: "do ái cố sinh ưu, do ái cố
sinh bố; nhược li ư ái giả, vô ưu diệc vô bố". Chỉ nghe thấy tiếng
loảng xoảng cùng tiếng tụng kinh xa dần.
Quách Tương cúi đầu: “Để ta hỏi ông
ta làm cách nào có thể thoát khỏi tình yêu, làm cách nào để không buồn không
sợ?”.
Thuận tay nàng buộc lừa vào một gốc
cây, vạch lùm cây đuổi theo. Chỉ thấy đằng sau tàn cây là một đường mòn lên
núi, có một tăng nhân gánh một đôi thùng lớn, đang đi chầm chậm. Quách Tương
rảo bước chạy theo, đến cách nhà sư chừng bảy, tám trượng, bỗng giật mình. Chỉ
thấy người đó gánh một đôi thùng sắt lớn, so với thùng gánh nước thường phải
hơn gấp đôi, vậy mà trên cổ, cánh tay, cẳng chân còn quấn quít đầy xích lớn,
mỗi khi đi đứng tiếng kêu loảng xoảng. Hai chiếc thùng không cũng đã đến hơn
hai trăm cân, trong lại đầy nước, phải nặng đến kinh người. Quách Tương kêu
lên:
- Đại hòa
thượng, xin dừng chân, tiểu nữ có điều muốn thỉnh giáo.
Nhà sư đó quay đầu lại, hai người
nhìn nhau, đều tỏ vẻ ngạc nhiên. Hóa ra vị hòa thượng đó là Giác Viễn, ba năm
trước, hai người đã gặp nhau tại đỉnh Hoa Sơn. Quách Tương biết ông ta tuy tính
hơi cổ hủ nhưng nội công tinh thâm, không kém bất cứ cao thủ nào hiện thời, nên
nói:
- Tưởng ai
hóa ra là Giác Viễn đại sư. Tại sao ông lại ra nông nỗi này?
Giác Viễn khẽ gật đầu, mỉm cười,
chắp tay hành lễ, nhưng không trả lời, quay mình bước đi. Quách Tương vội gọi:
- Giác Viễn
đại sư, ông không nhận ra tôi sao? Tôi là Quách Tương đây mà!
Giác Viễn quay lại mỉm cười, khẽ gật
đầu nhưng không ngừng bước. Quách Tương lại hỏi:
- Ai lấy
xích buộc ông vậy? Sao lại hành hạ ông như thế?
Giác Viễn đưa tay trái ra sau đầu
xua xua mấy cái, như ám chỉ cô ta đừng hỏi nhiều.
Quách Tương thấy chuyện kỳ quái, lẽ
nào không tìm cho ra đầu đuôi? Lập tức cất bước đuổi theo, tính sẽ chặn trước
mặt nhà sư. Nào ngờ Giác Viễn tuy toàn thân đầy xích, lại gánh đôi thùng sắt,
vậy mà dẫu Quách Tương hết sức chạy, thủy chung vẫn không vượt qua được ông ta.
Tính trẻ con của cô gái nổi lên, thi triển khinh công gia truyền, hai chân nhún
một cái, người bay vọt lên, vươn tay chụp vào thùng nước. Mắt trông tưởng ra
tay ắt sẽ trúng, nào ngờ vẫn còn cách đến hai tấc. Quách Tương kêu lên:
- Đại hòa
thượng giỏi thật, nhất định tôi phải đuổi kịp ông mới thôi.
Chỉ thấy Giác Viễn rảo bước đi,
tiếng xích sắt leng keng như tiếng nhạc, mỗi lúc một xa về phía sau núi.
Quách Tương đuổi theo một lúc hơi
thở đã dồn dập, thế nhưng vẫn cách ông ta đến hơn một trượng, trong lòng không
khỏi bội phục: “Cha mẹ ta lúc ở trên núi Hoa Sơn, đã từng nói là vị hòa thượng
này võ công cực cao, lúc đó ta không tin, đến nay thử một chuyến, thấy lời hai
ông bà quả thật không sai”.
Chỉ thấy Giác Viễn quẹo vào đằng sau
một ngôi nhà nhỏ, đổ hai thùng nước vào trong một miệng giếng. Quách Tương hết
sức kỳ quái, kêu lên:
- Đại hòa
thượng, ông không điên đấy chứ? Đổ nước vào trong giếng để làm gì thế?
Giác Viễn thần sắc bình hòa, lắc
đầu. Quách Tương chợt hiểu ra, cười:
- À, hóa ra
ông đang luyện một môn nội công rất cao thâm.
Giác Viễn lại lắc đầu lần nữa. Quách
Tương hơi bực mình, nói:
- Rõ ràng
tôi nghe ông tụng kinh, tức không bị câm, sao bây giờ không trả lời tôi?
Giác Viễn chắp tay chào, vẻ mặt hơi
sượng sùng, không đáp lời, quảy đôi thùng đi xuống chân núi. Quách Tương thò
đầu nhìn vào trong giếng, chỉ thấy nước trong vắt, không thấy điểm gì đặc biệt,
ngẩn ngơ nhìn theo lưng Giác Viễn, lòng đầy nghi hoặc.
Cô ta đuổi theo một hồi thấy đã hơi
mệt nên ngồi xuống thành giếng, quan sát phong cảnh bốn bề. Nơi đó cao hơn
những tòa nhà trong chùa Thiếu Lâm, nhưng thấy núi Thiếu Thất vươn thẳng lên
trời, trải ra như một bức bình phong, bên dưới khói tỏa lung linh, tiếng chuông
theo gió vang lại, khiến bao nhiêu nỗi phiền tục bay đi cả. Quách Tương thầm
nghĩ: “Người đệ tử của ông hòa thượng này đi đâu, nếu ông ta không nói, ta đi
hỏi thiếu niên này vậy”.
Nghĩ vậy cất bước hạ sơn, định đi
kiếm đệ tử của Giác Viễn là Trương Quân Bảo hỏi cho ra lẽ. Đi được một quãng,
lại nghe tiếng xích leng keng, Giác Viễn lại gánh nước đi tới. Quách Tương lẻn
ra sau một gốc cây, nghĩ thầm:” Để ta rình xem ông ta định làm trò quỉ quái
gì”.
Tiếng xích sắt tới gần, chỉ thấy
Giác Viễn gánh đôi thùng sắt, tay cầm một quyển sách, chú tâm vào đọc. Quách
Tương đợi ông ta đến gần bên, hết sức nhảy vọt ra, kêu lên:
- Đại hòa
thượng, ông đọc sách gì thế?
Giác Viễn thất thanh kêu lên:
- Ôi chà,
làm tôi hết hồn, hóa ra là cô.
Quách Tương cười:
- Tưởng ông
giả câm, sao bây giờ lại nói được?
Giác Viễn hơi có vẻ sợ hãi, nhìn
quanh một lượt, xua tay. Quách Tương hỏi:
- Ông sợ cái
gì?
Giác Viễn chưa kịp trả lời, đột
nhiên từ trong rừng cây có hai nhà sư mặc áo màu xám tro bước ra, một cao một
lùn. Nhà sư cao gầy quát:
- Giác Viễn
không giữ giới pháp, dám tự tiện mở mồm nói chuyện với người ngoài chùa, nhất
là lại nói chuyện với một thiếu nữ trẻ tuổi? Mau đi gặp thủ tọa giới luật
đường.
Giác Viễn lủi thủi, chỉ gật đầu, đi
theo hai tăng nhân nọ.
Quách Tương vừa tức, vừa giận, lớn
tiếng hỏi:
- Trên đời
này sao lại có lề luật đâu cấm người ta nói chuyện bao giờ? Tôi quen biết vị
đại sư này, tôi nói chuyện với ông ta, việc gì đến các ông?
Nhà sư cao gầy trừng mắt nhìn, nói:
- Từ một
nghìn năm nay, chùa Thiếu Lâm không cho phép nữ lưu bước chân vào. Mời cô nương
xuống núi, đừng để chúng tôi phải làm phiền.
Quách Tương nổi giận:
- Nữ lưu thì
đã sao? Đàn bà con gái không phải người à? Các ngươi tại sao làm khó dễ vị Giác
Viễn đại sư này? Đã lấy xiềng xích trói người ta, lại còn không cho người ta nói
chuyện?
Nhà sư đó cười nhạt:
- Việc của
bản tự, đến hoàng đế cũng chẳng can thiệp được. Không dám để cô nương phải nhọc
lòng hỏi đến.
Quách Tương càng giận hơn:
- Vị đại sư
này là người thực thà trung hậu, thấy người ta hiền lành, các ngươi hiếp đáp.
Hừ hừ, Thiên Minh thiền sư đâu? Vô Sắc, Vô Tướng hòa thượng đâu? Các ngươi đi
gọi họ ra đây để ta hỏi họ xem thế là thế nào?
Hai nhà sư nọ nghe thấy thế đều giật
mình. Thiên Minh thiền sư là phương trượng của chùa, Vô Sắc thiền sư là thủ tọa
La Hán đường, còn Vô Tướng thiền sư là thủ tọa Đạt Ma đường. Ba người địa vị
tôn quí nên tăng lữ trong chùa trước nay chỉ gọi là lão phương trượng, thủ tọa
La Hán đường và thủ tọa Đạt Ma đường, chứ không dám gọi bằng pháp danh. Ngờ đâu
một cô gái trẻ tuổi lại dám lên núi hô hoán thẳng tên như thế.
Hai tăng nhân này đều là đệ tử của
thủ tọa giới luật đường, được lệnh tọa sư sai đi giám thị Giác Viễn. Nghe thấy
Quách Tương ăn nói không kiêng nể gì ai, nhà sư cao gầy quát:
- Nữ thí chủ
nếu còn làm rộn chốn Phật môn thanh tịnh thì đừng trách tiểu tăng vô lễ.
Quách Tương nói:
- Bộ tưởng
ta sợ sư sãi các ngươi hay sao? Mau mau tháo dây xích xiềng trói Giác Viễn đại
sư ra thì ta để yên, nếu không ta sẽ lôi Thiên Minh lão hòa thượng ra hỏi đấy.
Nhà sư lùn nghe thấy Quách Tương ăn
nói lếu láo, bên hông lại đeo đoản kiếm, nên gằn giọng:
- Cô tháo
binh khí để lại, chúng tôi không cãi lý với cô, mau xuống núi đi.
Quách Tương tháo đoản kiếm ra, hai
tây nâng lên cười nhạt:
- Hay lắm,
xin tuân lệnh tôn đài.
Gã sư lùn từ nhỏ xuất gia, trước nay
nghe sư bá, sư thúc, sư huynh đều nói là Thiếu Lâm tự là nguồn gốc chung của võ
học, lại nghe là dù thanh vọng lớn đến thế nào chăng nữa, võ lâm cao thủ tài ba
đến mấy chăng nữa, cũng không ai dám đeo binh khí tiến vào trong chùa Thiếu
Lâm. Cô gái trẻ tuổi này tuy chưa bước chân vào cổng chùa, nhưng cũng đã thuộc
phạm vi của Thiếu Lâm, hẳn là cô ta cũng sợ nên líu ríu giao đoản kiếm. Nghĩ
thế nên y đưa tay nhận kiếm. Tay gã vừa chạm vào bao kiếm bỗng thấy cánh tay
chấn động như bị điện giật. Một luồng sức mạnh từ đoản kiếm truyền lên, hất về
phía sau, chân đứng không vững khiến gã ngã bổ chửng. Gã đang đứng tại triền
núi dốc, bị ngã liền lộc cộc lăn xuống mấy trượng, may cố gượng mới dừng lại
được.
Nhà sư cao gầy vừa tức vừa sợ, quát:
- Ngươi ăn
tim sư tử, uống mật báo hay sao mà dám tới Thiếu Lâm tự gây rối hả?
Y xoay người lại, tiến lên một bước,
tay phải tung ra một chưởng, tay trái cũng đi theo đè lên tay phải, hai tay
cùng đánh ra, chính là thế thứ hai mươi tám trong “Sấn Thiếu Lâm” Phiên Thân
Phách Kích.
Quách Tương tay cầm cán kiếm, dùng
cả kiếm lẫn bao nhằm vai gã điểm tới. Nhà sư hạ vai xuống phản kích, vươn tay
chộp lấy bao kiếm. Giác Viễn đứng bên thấy thế hoảng hốt kêu lên:
- Xin đừng
động thủ, đừng động thủ! Hãy từ từ nói chuyện phải quấy.
Lúc đó tăng nhân đã nắm được bao,
đang định vận kình đoạt kiếm, chỉ thấy lòng bàn tay bị chấn động, hai cổ tay
hơi tê đi, kêu lên một tiếng: “Hỏng rồi”, Quách Tương chân trái đã quét ngang,
đá y văng xuống sườn núi.
Y bị đòn so với gã sư lùn nặng hơn
nhiều, lăn xuống, trên đầu, trên mặt bị va vào đá máu chảy lênh láng, mãi mới
ngừng lại được. Quách Tương nghĩ thầm: “Ta lên chùa Thiếu Lâm vốn chỉ muốn dò
hỏi tin tức đại ca, vô cớ cùng bọn họ động thủ, xem ra không ổn rồi”.
Liếc mắt thấy Giác Viễn mặt mày buồn
thiu đứng tại bên cạnh, nên rút đoản kiếm ra, chặt những xích buộc ở tay ông
ta. Tuy đoản kiếm đó không phải là vật hi hữu, quí báu, nhưng cũng là một loại
binh khí rất sắc bén, chỉ nghe loảng xoảng mấy tiếng, dây xích đã đứt thành ba
khúc. Giác Viễn luôn mồm kêu:
- Không được
đâu! Không được đâu!
Quách Tương hỏi lại:
- Cái gì mà
không được?
Rồi chỉ tay về phía hai tăng nhân
cao lùn đang chạy vào chùa mà nói:
- Hai tên ác
hòa thượng đó hẳn là vào chùa phi báo, mình phải chạy ngay. Đồ đệ họ Trương của
ông đâu? Dắt cậu ta theo với.
Giác Viễn chỉ xua tay. Bỗng phía sau
có tiếng người nói:
- Đa tạ cô
nương quan tâm, tôi đang ở đây.
Quách Tương quay lại, thấy đằng sau
lưng một thiếu niên chừng mười sáu, mười bảy tuổi, mày rậm mắt to, thân thể cao
lớn, nhưng mặt vẫn còn trẻ con, chính là Trương Quân Bảo, người ba năm trước đã
gặp trên núi Hoa Sơn. So với bây giờ, cậu ta đã cao lớn hơn nhiều, nhưng dung
mạo không thay đổi mấy. Quách Tương mừng quá, vội nói:
- Bọn ác hòa
thượng ở đây chèn ép sư phụ ngươi, mình nên chạy ngay đi.
Trương Quân Bảo lắc đầu:
- Không ai
chèn ép sư phụ tôi đâu.
Quách Tương chỉ Giác Viễn:
- Hai gã ác
hòa thượng đó lấy xích buộc sư phụ ngươi, lại một câu cũng không cho nói, chẳng
chèn ép thì là gì?
Giác Viễn nhăn nhó lắc đầu, chỉ
xuống chân núi, ý muốn Quách Tương mau mau thoát thân, đừng để bị rắc rối.
Quách Tương biết rằng trong chùa Thiếu Lâm số người võ công cao hơn nàng không
biết bao nhiêu, nhưng thấy việc bất bình trước mắt, không thể xuôi tay bỏ qua;
lại ngại cao thủ trong chùa chạy ra ngăn trở, nên một tay nắm Giác Viễn, một
tay nắm Trương Quân Bảo, dậm chân nói:
- Chạy mau,
chạy mau, có chuyện gì xuống núi đã rồi hãy nói cũng được.
Hai người chỉ đứng yên không trả
lời. Bỗng thấy cửa chùa ở triền núi bên dưới chạy ra bảy tám tăng nhân, tay cầm
tề mi đại côn, kêu lên:
- Con nhỏ
mất dạy nào dám đến chùa Thiếu Lâm mà phá phách?
Trương Quân Bảo đưa tay làm loa kêu
lớn:
- Các vị sư
huynh không được vô lễ, đây là...
Quách Tương hoảng hốt:
- Đừng nói
tên tôi ra.
Nàng nghĩ chuyện ngày hôm nay xem
chừng không nhỏ, thể nào rồi cũng đồn ra đến tai cha mẹ, nên thêm một câu:
- Bọn mình
nên theo đường núi chạy ngay, tuyệt đối đừng đề cập đến tên cha mẹ, bạn bè tôi.
Chỉ nghe thấy sườn núi phía sau cũng
có tiếng người la ó, lại thêm bảy tám nhà sư nữa chạy ra. Quách Tương thấy
trước sau đều có sư bao vây, nhíu mày, trách:
- Các ngươi
cứ lừng chà lừng chừng, không có chút khí phách gì của nam nhi, chạy hay không
nào?
Trương Quân Bảo nói:
- Sư phụ, cô
nương đây có lòng tốt...
Ngay lúc đó, cửa chùa bên dưới lại
ra thêm bốn nhà sư áo vàng, phấp phới chạy thẳng lên, tay không cầm binh khí
nhưng thân pháp nhanh nhẹn, gió thổi vào áo phần phật, xem ra võ công không
phải tầm thường. Quách Tương thấy tình thế như vậy, xem chừng chạy thoát thân
một mình cũng không xong, nên ngưng khí đứng yên, chờ xem chuyện gì xảy ra. Nhà
sư chạy đầu đến cách cô ta chừng bốn trượng, lớn tiếng nói:
- Thủ tọa La
Hán đường sư tôn truyền rằng, người đến chùa mau bỏ binh khí, xuống lều tranh
dưới núi nói rõ sự tình, để nghe pháp dụ.
Quách Tương cười nhạt:
- Gớm, các
đại hòa thượng chùa Thiếu Lâm quan cách quá, nghe thật lọt tai. Xin hỏi các đại
hòa thượng là quan của hoàng đế Đại Tống, hay là quan của hoàng đế Mông Cổ đấy?
Khi đó đất đai phía bắc sông Hoài
không còn thuộc về nhà Đại Tống nữa, khu vực chùa Thiếu Lâm cũng đã thuộc về
Mông Cổ từ lâu. Thế nhưng quân Mông nhiều năm qua còn bận công thành Tương
Dương chưa được, phải lo điều binh khiển tướng không hơi sức đâu mà lo chuyện
chùa chiền, nên chùa Thiếu Lâm mọi sự vẫn y như ngày trước.
Gã tăng nhân nghe Quách Tương mỉa
mai thật là chua cay, nên không khỏi đỏ mặt, cảm thấy đối với người ngoài mà
truyền dụ như vậy quả không ổn, nên chắp tay nói:
- Không biết
nữ thí chủ có chuyện gì mà quang lâm tệ tự, xin để binh nhận, mời xuống vi đình
dưới chân núi uống trà nói chuyện.
Quách Tương thấy y đổi giọng hòa
nhã, nên cũng muốn làm hòa, nên nói:
- Các ông
không cho tôi vào chùa thì thôi. Hừ, hay là trong chùa có báu vật, tôi trông
thấy sẽ được thơm lây chăng?
Nói rồi liếc nhìn Trương Quân Bảo,
nói nhỏ:
- Có chạy
hay không thì bảo?
Trương Quân Bảo lắc đầu, nhếch mép
về phía Giác Viễn, ý nói muốn ở lại hầu hạ sư phụ. Quách Tương lớn tiếng nói:
- Thế thì
thôi ta không lo cho nữa, ta đi đây.
Nói rồi rảo bước chạy xuống núi.
Nhà sư áo vàng đi đầu né sang nhường
lối. Người thứ hai và người thứ ba giơ tay ngăn lại, cùng nói:
- Hãy khoan,
để binh khí lại.
Quách Tương nhướng mày, tay để lên
cán kiếm. Nhà sư thứ nhất nói:
- Chúng tôi
không dám giữ binh nhận của nữ thí chủ đâu. Khi xuống đến chân núi, chúng tôi
lập tức đem bảo kiếm giao lại. Đây là qui củ của chùa Thiếu Lâm hàng nghìn năm
nay, xin lượng thứ cho.
Quách Tương nghe y ăn nói lễ độ,
trong lòng thầm tính: “Nếu như mình không để kiếm lại, thế tất phải đánh nhau,
ta chỉ có một mình, đâu phải là địch thủ của tăng chúng chùa Thiếu Lâm. Thế
nhưng nếu để kiếm lại, chẳng há đem thể diện ông ngoại, cha mẹ, đại ca ca, Long
tỉ tỉ bỏ đi sao?”.
Nàng còn đang trù trừ chưa quyết,
chỉ thấy trước mắt một bóng vàng thấp thoáng, một người thét:
- Đã đeo
kiếm đến chùa Thiếu Lâm, lại đả thương người, trên đời này đâu có lý nào như
thế.
Kình phong xô tới, năm ngón tay đã
chộp lấy bao kiếm. Giá như tăng nhân đó để yên không ra tay, Quách Tương thấy
trước mắt tình thế bất lợi, ắt sẽ tạm nhịn cái khí nhất thời, sau sẽ cùng với
ông ngoại, cha mẹ bàn luận rồi quay lại tính chuyện. Thế nhưng đối phương đột
nhiên ỷ mạnh, chẳng lẽ để y khơi khơi đoạt kiếm sao?
Cầm nã thủ pháp của nhà sư đó quả
thực xảo diệu, vừa nắm được bao kiếm, nghĩ là thể nào Quách Tương cũng giựt
lại, một hòa thượng cùng một cô gái co co kéo kéo, trông rất bất nhã, nên y vận
kình đẩy sang bên trái, thuận thế lại kéo về bên phải. Quách Tương bị y vừa nắm
vừa đẩy như thế quả nhiên không cưỡng lại được phải lỏng tay ra, vội chụp lấy
cán kiếm, chỉ soẹt một tiếng, hàn quang lấp lánh. Tăng nhân nọ tay phải tuy cầm
được bao kiếm nhưng hai ngón tay trái đã bị đoản kiếm thuận thế cắt đứt, đau
quá phải ném bao kiếm, lui sang một bên.
Chúng tăng nhân thấy đồng môn bị
thương, vừa kinh vừa giận, múa trượng giơ côn cùng xông lại. Quách Tương nghĩ
thầm: “Thôi thì đến đâu thì đến, hôm nay chuyện xem không xong rồi”. Nghĩ rồi
sử dụng tài nghệ gia truyền “Lạc Anh kiếm pháp”, vừa múa vừa xông xuống chân
núi. Các nhà sư xếp thành ba vòng, chia nhau đỡ gạt.
Lạc Anh kiếm pháp vốn do Hoàng Dược
Sư theo Lạc Anh chưởng pháp mà chế ra, tuy không tinh diệu bằng Ngọc Tiêu kiếm
pháp, nhưng cũng là một tuyệt kỹ của đảo Đào Hoa. Chỉ thấy ánh xanh lấp loáng,
kiếm hoa từng điểm, như phất phới đang rơi khắp bốn bề. Trong chốc lát đã có
hai tăng nhân bị thương. Thế nhưng phía sau lại có mấy nhà sư xông lên, thế từ
cao đánh xuống. Nếu theo lý thì Quách Tương không thể nào đương cự nổi, nhưng
tăng chúng Thiếu Lâm lấy từ bi làm gốc, không muốn hại đến tính mệnh cô ta,
chiêu số đánh ra không dùng sát thủ, chỉ cốt đánh ngã, dạy dỗ một phen, giữ
binh khí lại, đuổi xuống chân núi. Thế nhưng Quách Tương kiếm quang mù mịt,
không dễ gì tới được gần.
Lúc đầu tăng chúng nghĩ rằng cô gái
tuổi còn trẻ, nên coi thường. Đến lúc thấy kiếm pháp tinh kỳ, biết là không
thuộc giòng giõi danh môn cũng là đồ đệ danh sư, không nên đắc tội, phải ra
chiêu dè dặt, một mặt cấp báo cho thủ tọa La Hán đường Vô Sắc thiền sư.
Đang lúc đó, một vị sư già thân thể
cao gầy chầm chậm đi tới, hai tay luồn trong tay áo, mỉm cười xem hai bên giao
đấu. Hai tăng nhân chạy đến trước mặt ông ta, nói khẽ vài câu. Quách Tương lúc
này đã thở hồng hộc, kiếm pháp lăng loạn, kêu lớn:
- Vậy mà dám
gọi là nguồn gốc võ công thiên hạ, hóa ra hơn một chục hòa thượng vây đánh một
người, lấy đông thắng ít.
Vị lão tăng đó chính là thủ tọa La
Hán đường Vô Sắc thiền sư, nghe vậy, liền nói:
- Mọi người
dừng tay!
Những nhà sư nghe thế vội ngưng lại
nhảy ra ngoài. Vô Sắc thiền sư nói:
- Cô nương
tên họ là gì, lệnh tôn và lệnh sư là ai? Đến chùa Thiếu Lâm chẳng hay có chuyện
gì thế?
Quách Tương nghĩ thầm “Ta không nên
nói tên họ cha mẹ cho ông ta biết. Việc ta đến chùa Thiếu Lâm để thăm hỏi tin
tức của đại ca cũng không thể nói ra cho mọi người nghe được. Mình đã gây rắc
rối thế này, cha mẹ và đại ca biết được thể nào cũng rầy rà, chi bằng mình cứ
lặng thinh là hơn. “ Vì thế nàng đáp:
- Tên họ tôi
không thể cho ông biết được, chẳng qua tôi thấy trên núi phong cảnh đẹp đẽ, nên
lên ngắm cảnh đấy thôi. Nào ngờ chùa Thiếu Lâm so với nội viện hoàng cung còn
khó khăn hơn, chẳng làm gì cũng đòi giữ binh khí người ta lại. Xin hỏi đại sư,
tôi đã bước chân vào cổng chùa chưa? Ngày trước Đạt Ma tổ sư truyền võ nghệ,
chẳng qua cũng chỉ để cho tăng chúng thân thể khỏe mạnh, khiến việc tu hành cho
tinh tiến, nào hay danh tiếng càng to, võ công càng cao, thì cái việc cậy đông
cậy mạnh lại càng lớn. Hay lắm, nếu các ông muốn giữ binh khí của tôi, thì tôi
để lại, trừ phi giết tôi đi, chứ việc hôm nay đừng tưởng trên giang hồ không ai
biết đến.
Cô ta bản chất nhanh mồm khéo miệng,
việc này lại không phải hoàn toàn lỗi ở nàng, chỉ một câu khiến Vô Sắc thiền sư
cứng họng không trả lời được. Quách Tương nhìn mặt đặt tên, nghĩ thầm: “Việc
quấy phá này chính ta mới là người sợ lộ ra ngoài, nhưng xem ra Thiếu Lâm tự
còn ngại hơn. Hơn một chục hòa thượng vây đánh một cô gái trẻ tuổi, nghe có gì
là hay ho?”. Nghĩ thế bèn hứ một tiếng, ném đoản kiếm xuống đất, quay mình bước
đi.
Vô Sắc thiền sư lạng người tiến lên,
phất tay áo một cái đã cuộn được thanh kiếm, hai tay cầm lấy lưỡi kiếm, nói:
- Cô nương
nếu không nể tình thầy trò chúng tôi, thanh bảo kiếm này xin cầm lại. Lão nạp
cung kính tiễn cô xuống núi.
Quách Tương nghe vậy cười đáp:
- Xem ra lão
hòa thượng thông đạt tình lý, thế mới gọi là phong phạm của bậc danh gia.
Cô ta thấy mình được thế nên thuận
mồm khen Vô Sắc một câu, rồi thò tay nhắc kiếm, bỗng thấy giật mình. Nguyên lai
lòng bàn tay đối phương sinh ra một hấp lực, tuy cô ta đã cầm được cán kiếm
nhưng không sao nâng lên được. Nàng ra sức vận kình ba lần nhưng vẫn không sao
lấy được đoản kiếm, bèn nói:
- Hay nhỉ,
ông định khoe công phu chăng.
Đột nhiên tay trái vung ra, nhẹ
nhàng hướng vào hai huyệt Thiên Đỉnh, Cự Cốt ở bên trái cổ ông ta phất tới. Vô
Sắc kinh hãi, né người tránh, khí kình hơi lỏng ra nên Quách Tương thuận thế mà
lấy được đoản kiếm.
Vô Sắc nói:
- Công phu
Lan Hoa Phất Huyệt Thủ hay thực. Chẳng hay cô xưng hô Đào Hoa đảo chủ như thế
nào?
Quách Tương cười đáp:
- Đào Hoa
đảo chủ ư? Tôi gọi ông ta là Lão Đông Tà.
Đào Hoa đảo chủ Đông Tà Hoàng Dược
Sư chính là ông ngoại của Quách Tương, tính tình khác người, trước nay vốn
không câu nệ lễ phép, thường đùa cô cháu ngoại gọi là Tiểu Đông Tà, Quách Tương
liền gọi lại ông ngoại là Lão Đông Tà, Hoàng Dược Sư không những không la rầy,
còn tỏ ra hoan hỉ.
Vô Sắc lúc thiếu thời vốn là lục
lâm, tuy đã nương thân cửa thiền mấy chục năm tu trì, Phật học uyên thâm, nhưng
hào khí xưa vẫn chưa dứt, nếu không làm sao kết bạn được với Dương Quá? Thấy cô
gái này không chịu khai sư thừa lai lịch, định thử một chuyến, nên lớn tiếng
nói:
- Tiểu cô
nương tiếp ta mười chiêu, để xem nhãn lực lão hòa thượng thế nào, có nói ra
được môn phái của cô chăng?
Quách Tương hỏi lại:
- Nếu như
mười chiêu mà không nhìn ra, thì ông tính sao?
Vô Sac thiền sư lớn tiếng cả cười:
- Nếu như cô
nương tiếp được lão nạp mười chiêu, thì cô muốn chuyện gì ta cũng nghe theo.
Quách Tương chỉ Giác Viễn:
- Tôi cùng
vị đại sư này trước đây có duyên một lần gặp gỡ, nên muốn thay ông ta cầu chút
tình. Nếu như mười chiêu mà ông không nói được sư phụ tôi là ai, chỉ xin ông
đáp lời, đừng làm khó dễ vị đại sư này nữa.
Vô Sắc hết sức ngạc nhiên, nghĩ thầm
Giác Viễn tính tình ngơ ngơ ngẩn ngẩn, mấy chục năm qua tại Tàng Kinh Các giữ
sách, trước nay chưa từng cùng người ngoài giao thiệp, tại sao lại quen được
với cô gái này? Bèn nói:
- Chúng tôi
vốn đâu có làm khó dễ gì y. Tăng chúng trong chùa phạm giới luật, dù ai cũng
vậy, cũng phải chịu phạt chứ đâu phải là làm khó dễ.
Quách Tương bĩu môi, cười:
- Hừ, nói
qua nói lại, ông cũng đều né tránh cả.
Vô Sắc vỗ tay một cái, nói:
- Được rồi,
theo lời cô. Nếu như lão nạp thua, sẽ thay sư đệ Giác Viễn gánh ba nghìn một
trăm linh tám gánh nước. Cô nương lưu ý, ta xuất chiêu đây.
Khi đang nói chuyện, Quách Tương đã
thầm tính trong lòng: "Lão hòa thượng này khí ngưng thần tĩnh, võ công cao
cường, nếu như để ông ta xuất chiêu, ta ắt phải hết sức chống đỡ, không thể nào
không lộ võ công của cha mẹ mình ra. Chi bằng ta chiếm tiên cơ, đánh ra mười
chiêu liền”. Nghe ông ta vừa nói hai câu “Cô nương lưu ý, ta xuất chiêu đây”
nên không đợi ông ta ra quyền cước, nghe vèo một tiếng đoản kiếm đã nhắm thẳng
vào ngực đâm tới, sử dụng một chiêu trong Lạc Anh kiếm pháp của đảo Đào Hoa,
tên là Vạn Tử Thiên Hồng, mũi kiếm đâm ra liên tiếp rung động, để cho đối thủ
không biết công vào chỗ nào. Vô Sắc biết là lợi hại, không dám trả miếng, nên
chỉ nghiêng mình tránh ra.
Quách Tương lại kêu: “Chiêu thứ hai
này”, đoản kiếm quay lại, từ dưới đâm lên trên, chính là một chiêu trong kiếm
pháp phái Toàn Chân tên là Thiên Thần Đảo Huyền. Vô Sắc nói:
- Hay lắm,
đó là Toàn Chân kiếm pháp.
Quách Tương nói:
- Chưa hẳn
thế đâu!
Đoản kiếm vừa đâm vào khoảng không,
thấy Vô Sắc phản thủ vi công, đưa tay ra toan nắm lấy cổ tay mình, trong lòng
hơi sợ: “Lão hòa thượng quả nhiên giỏi thực, trong khi kiếm chiêu hung hiểm như
thế, vậy mà dám đưa tay không ra công kích”. Vừa thấy bàn tay ông ta đến trước
mặt, đoản kiếm vội vàng vung lên mấy vòng, sử dụng chiêu Ác Cẩu Lan Lo[2] thuộc chữ Phong trong Đả Cẩu Bổng Pháp.
Cô ta từ nhỏ vẫn thường giao hảo với
bang chủ tiền nhiệm Cái Bang là Lỗ Hữu Cước, cùng nhau uống rượu đánh đố, có
khi còn cùng y tỉ thí võ nghệ. Tuy Cái Bang có qui củ, Đả Cẩu Bổng Pháp là thần
kỹ trấn bang, không phải bang chủ không được truyền thụ, nhưng khi Lỗ Hữu Cước
sử dụng, Quách Tương cũng học lóm được một chiêu nửa thức. Huống gì mẹ nàng
Hoàng Dung là bang chủ tiền nhiệm, bang chủ hiện tại Gia Luật Tề là anh rể
nàng, môn Đả Cẩu Bổng Pháp này nàng xem không biết bao nhiêu lần. Tuy không rõ
quyết khiếu bên trong nhưng cứ nhái theo cách thức đánh ra, cũng làm cho người
ta kinh hãi.
Ngón tay Vô Sắc vừa sắp chạm đến cổ
tay nàng, bỗng thấy bạch quang lấp loáng, thế kiếm đâm tới hết sức thần diệu,
năm ngón tay suýt bị chặt đứt, nhưng vì ông ta võ công trác tuyệt, biến chiêu
thật nhanh, trong lúc nguy cấp nhảy lùi về sau hai bước, nhưng nghe soẹt soẹt,
ống tay áo bên trái đã bị đoản kiếm cắt rách một đường dài. Vô Sắc thiền sư
nhìn chỗ áo rách mà mặt mày biến sắc, lưng toát mồ hôi lạnh.
Quách Tương rất lấy làm đắc ý, cười
hỏi:
- Cái đó là
kiếm pháp gì thế?
Thực ra trong thiên hạ không có loại
kiếm pháp đó, vốn nàng chỉ học lén được một thế Đả Cẩu Bổng Pháp, dùng lẫn vào
trong, nhưng Đả Cẩu Bổng Pháp quá ư áo diệu, tuy nàng dùng chẳng đi đến đâu,
nhưng cũng làm cho một vị cao tăng Thiếu Lâm danh tiếng lẫy lừng hết sức nghi
hoặc, không biết phải đối đáp thế nào cho phải.
Quách Tương nghĩ thầm: “Ta chỉ cần
sử dụng vài chiêu Đả Cẩu Bổng Pháp là thể nào cũng đánh bại được lão hòa thượng
này, tiếc rằng ngoài thế này ra, ta không biết thêm thức nào nữa”.
Không đợi cho Vô Sắc nghỉ mệt, đoản
kiếm lại vung lên nhẹ nhàng đâm tới, tư thái phiêu phiêu như tiên, mũi kiếm
nhắm hạ bàn đối phương điểm liên tiếp mấy nhát, chính là một thế học trong Ngọc
Nữ kiếm pháp của Tiểu Long Nữ tên là Tiểu Viên Nghệ Cúc (trồng cúc trong vườn
nhỏ).
Ngọc Nữ kiếm pháp vốn do nữ hiệp Lâm
Triêu Anh sáng tác, không những kiếm chiêu lăng lệ mà tư thế lại thoát tục,
phong nhã, chúng tăng chưa nhìn thấy bao giờ, khiến vừa kinh hãi lại vừa vui
mừng. Đạt Ma kiếm pháp, La Hán kiếm pháp của chùa Thiếu Lâm đều theo đường
cương mãnh, còn Ngọc Nữ kiếm pháp đã rất ít xuất hiện trên giang hồ, bản chất
so với kiếm pháp của Thiếu Lâm hoàn toàn tương phản. Thực ra nếu cứ kiếm pháp
mà luận, vị tất đã thắng được các lộ kiếm thuật Thiếu Lâm, chỉ vì thoạt nhìn,
trông hết sức đẹp mắt, chẳng khác gì trong kinh Phật viết là: dung nghi uyển
mị, trang nghiêm hòa nhã, đoan chính khả hỉ, quan giả vô yếm (hình dung ẻo lả,
trang nghiêm hòa nhã, đoan chính càng nhìn càng vui, xem không biết chán).
Vô Sắc thiền sư thấy kiếm thuật vừa
tinh diệu, vừa mỹ lệ cũng muốn xem thêm thức khác, nên né mình tránh ra, chờ
nàng đánh thêm. Bỗng Quách Tương đổi kiếm chiêu, chạy qua đông lại nhảy sang
tây, liên tiếp đâm ra mấy nhát. Trương Quân Bảo đứng bên nhìn mà xuất thần,
bỗng kêu “Ồ” một tiếng. Nguyên lai chiêu Quách Tương vừa sử dụng là chiêu Tứ
Thông Bát Đạt, ba năm trước trên đỉnh núi Hoa Sơn, Dương Quá đã dạy cho Trương
Quân Bảo, Quách Tương đứng ở bên cạnh xem, nay đem ra sử dụng. Thế nhưng lúc đó
Dương Quá dạy Trương Quân Bảo là chưởng pháp, bây giờ Quách Tương lại biến
thành kiếm pháp, tuy uy lực kém đi mấy phần, nhưng cũng rất tinh kỳ, khiến Vô
Sắc trong lòng phải thầm kinh hãi.
Tính ra, Quách Tương đã sử dụng năm
chiêu nhưng Vô Sắc chưa nhìn ra chút đầu mối nào. Khi còn trẻ, ông ta tung
hoành giang hồ, lịch duyệt nhiều, mười mấy năm qua giữ chức thủ tọa La Hán
đường, lại càng gia tâm nghiên cứu các nhà, các phái, so sánh võ công của chùa
với bên ngoài, lấy trường bổ đoản, sửa lại những chỗ còn khiếm khuyết. Thành ra
ông ta rất tự tin, nghĩ rằng dù cao nhân phương nào, chỉ cần vài chiêu là có
thể nhìn ra lai lịch. Ông ta ước định với Quách Tương mười chiêu, là đã tính
già lắm rồi. Nào ngờ cha mẹ, thầy bạn của Quách Tương đều là đệ nhất lưu cao
thủ đương thời, chỉ cần sử dụng võ công mỗi người một chiêu, chỗ này một chút,
chỗ kia một chút đã khiến cho Vô Sắc hoa cả mắt, rối cả trí, còn nói gì đến chuyện
nói ra môn phái.
Khi tám thức, bốn đường kiếm của
chiêu Tứ Thông Bát Đạt vừa chấm dứt, Vô Sắc nghĩ thầm: “Nếu như ta cứ để cho cô
ta xuất chiêu, chỉ e rằng quái chiêu sẽ liên miên bất tuyệt, nói chi mười
chiêu, đến một trăm chiêu chắc gì đã tìm ra manh mối. Chỉ có cách là ta tấn
công mãnh liệt, cô ta không thể không giở võ công bản môn ra chống đỡ”.
Lập tức chuyển thân qua bên trái,
tung ra một chiêu Song Quán Thủ, hổ khẩu hai nắm tay chầu vào nhau, vẽ thành
một hình vòng, đánh thẳng vào.
Quách Tương thấy kình lực của ông ta
rất mạnh, không dám chống đỡ, uốn mình một cái đã theo khoảng trống giữa hai
cánh tay đối phương mà lọt ra ngoài. Trước đây cô đã từng thấy Anh Cô đấu với
Dương Quá tại Hắc Long Đàm, thế yếu không chống nổi mạnh nên đã sử dụng Nê Thu
Công (công phu con trạch ở trong bùn) để thoát thân, nay cũng theo như thế. Tuy
thân pháp và công phu của cô không bằng Anh Cô, nhưng Vô Sắc thiền sư vốn không
định tâm dùng sát thủ, nên để cho Quách Tương nhẹ nhàng thoát ra.
Vô Sắc cất tiếng khen:
- Thân pháp
hay lắm, tiếp thử một chiêu nữa xem nào!
Tả chưởng xòe ra, cùi chỏ thu vào
ngực, hổ khẩu hướng lên trời, chính là thế Hoàng Oanh Lạc Giá trong Thiếu Lâm
quyền. Ông là võ học đại sư của chùa Thiếu Lâm, thân phận hai bên bất đồng, tuy
sở học bác tạp hơn Quách Tương nhiều, nhưng mỗi chiêu, mỗi thức sử dụng đều
thuần chính võ công bản môn. Thiếu Lâm quyền rất rộng lớn, thoạt xem bình
thường không có gì lạ nhưng luyện đến chỗ tinh thâm, uy lực thật không biết đến
chừng nào.
Bàn tay trái của ông vừa xòe ra,
Quách Tương đã thấy thượng bán thân bị lọt vào trong chưởng lực, vội vàng xoay
kiếm lại, dùng cán kiếm thay ngón tay, sử dụng một chiêu Nhất Dương Chỉ học lỏm
được của Võ Tu Văn, dùng kình điểm ba huyệt Uyển Cốt, Dương Cốc, Dưỡng Lão trên
cổ tay Vô Sắc. Thực ra công phu điểm huyệt Nhất Dương Chỉ nàng chỉ học được
chút vỏ bên ngoài, rất là thô thiển. Thế nhưng một chỉ điểm ba huyệt chính là
tinh yếu của công phu này.
Trước đây Nhất Dương Chỉ của Nhất
Đăng đại sư vang danh thiên hạ, Vô Sắc thiền sư dĩ nhiên phải biết. Khi Quách
Tương vừa xuất chiêu, ông kinh hãi, vội vàng rụt tay về. Kỳ thực, nếu như Vô
Sắc cứ để yên cho Quách Tương điểm ba huyệt đạo, sẽ thấy ngay là Nhất Dương Chỉ
của nàng là giả, nhưng trong lúc hai bên toàn lực tương đấu, ông đâu dám đem
danh tiếng cả đời mình ra thử.
Quách Tương đắc ý cười:
- Đại hòa
thượng cũng biết là lợi hại nhỉ?
Vô Sắc chỉ hừ một tiếng, đánh ra
chiêu Đơn Phụng Triều Dương. Chiêu này hai tay mở rộng, giơ từ cao đánh xuống,
kình lực ào ào tràn tới. Thanh đoản kiếm trong tay Quách Tương cầm không nổi
tuột khỏi tay rơi xuống đất. Nàng biết là đối phương không nỡ ra tay hạ sát
thủ, nên không kinh hoảng, song chưởng đan chéo vào nhau, dường như có dường
như không, chính là lộ thứ năm mươi bốn có tên Diệu Thủ Không Không, trong bảy
mươi hai đường Không Minh Quyền, kiệt tác đắc ý của Lão Ngoan Đồng Chu Bá
Thông.
Đường quyền này do Chu Bá Thông tự
sáng tác, chưa lưu truyền trong giang hồ, nên tuy Vô Sắc kiến thức uyên bác
nhưng cũng không biết đến. Ông liền vẽ song chưởng thành hình vòng cung, đánh
ra chiêu Thiên Hoa Thất Tinh, nhanh như điện đã tràn tới bao phủ chưởng lực của
Quách Tương. Nếu Quách Tương không dùng nội lực chống đỡ, tay sẽ bị bẻ quặt về
sau, gãy thành hai đoạn. Thiên Hoa Thất Tinh là một chiêu cơ bản trong công phu
Thiếu Lâm, trông tưởng chậm nhưng thật là nhanh, tưởng nhẹ nhưng thật là nặng.
Chiêu này tuy là tư thức trong Sấm Thiếu Lâm nhưng ý kình nội lực lại từ tinh
yếu trong Thần Hoa Thiếu Lâm mà ra.
Quách Tương thủ chưởng bị khống chế,
nghĩ thầm: “Không lẽ ông dám đánh gãy xương tay ta ư?”.
Thuận thế giơ tay lên, dùng chiêu
Thiết Bồ Phiến Thủ, lấy chưởng đối chưởng phản kích lại. Chiêu này nàng học của
vợ Võ Tu Văn là Hoàn Nhan Bình, vốn do Thiết Chưởng Thủy Thượng Phiêu Cừu Thiên
Nhận truyền lại. Thiết Chưởng Công là võ công cương mãnh hạng nhất trong mọi
môn phái, Vô Sắc thiền sư chuyên nghiên cứu chưởng pháp, lẽ nào không biết. Vừa
thấy cô gái sử dụng chưởng pháp của Thiết Chưởng Bang, ông giật nảy mình, vội
vàng thu chưởng lại, một là không muốn cô ta bị thương, hai là đối với Thiết
Chưởng Công cũng có ba phần e ngại. Ông ta là người trung hậu, thấy Quách Tương
mỗi chiêu mỗi thức đều đâu ra đấy, không nghĩ rằng một cô gái mới hai mươi tuổi
đầu không thể nào học được nhiều như thế, nên nhảy lùi lại nửa trượng.
Quách Tương thản nhiên mỉm cười:
- Ra chiêu
thứ mười đây, ông xem tôi ở môn phái nào?
Tay trái giơ lên, thân hình hơi chồm
tới, tay phải luồn vào toan chộp lầy cằm của Vô Sắc. Vô Sắc cùng chúng tăng
không nhịn được phải ngạc nhiên kêu ồ một tiếng. Chiêu đó có tên là Khổ Hải Hồi
Đầu, chính là một chiêu trong La Hán Quyền của phái Thiếu Lâm chính tông, môn
phái khác không có được. Dụng ý của chiêu này là tay trái ấn đầu đối phương,
tay phải đỡ lấy cằm, vặn một cái, nặng ắt gãy cổ, nhẹ cũng trật khớp, là một
chiêu sát thủ rất lợi hại. Vô Sắc thiền sư thấy cô ta giở một chiêu trong La
Hán Quyền, thật chẳng khác nào múa búa trước cửa Lỗ Ban, đem Hiếu Kinh đọc cho
Khổng Tử nghe, nghĩ vừa bực mình, vừa tức cười. Pho quyền pháp này ông đã thành
thục từ mấy chục năm trước, luyện đã đến mức không còn phải suy nghĩ, ra chiêu
là ra, dù có đang nằm ngủ cũng có thể giải được chiêu này. Ông nghiêng người
bước qua một bên, tay trái đặt ngang mặt Quách Tương, vươn một cái đã nắm được
vai phải, tay trái nhanh như chớp luồn ra sau cổ. Chiêu này tên là Hiệp Sơn
Siêu Hải, là chiêu để giải thế Khổ Hải Hồi Đầu có một không hai, hai tay vừa ra
là đã nâng ngang địch nhân lên khỏi mặt đất. Đúng ra thì Quách Tương có thể theo
đó mà sử dụng thế Bàn Trửu, nắm ngược lại cùi chỏ đối phương để thoát thân, lại
còn có thể chế ngự địch được nữa, nhưng Vô Sắc thiền sư phản công quá nhanh,
chỉ trong chớp mắt, đã nhấc bổng nàng lên. Quách Tương hai chân rời khỏi mặt
đất, còn thi triển công phu nào được, dĩ nhiên thua rồi.
Vô Sắc thiền sư thuận tay chế ngự
Quách Tương nhưng bỗng giật mình: “Chao ôi! Ta chỉ mong thủ thắng, nhưng không
nghĩ đến việc tìm ra sư thừa môn phái của cô ta. Trong mười chiêu, cô ta sử
dụng mười môn quyền pháp khác nhau, biết gọi là môn phái nào? Không thể nói cô
ta thuộc phái Thiếu Lâm”.
Quách Tương ra sức giãy dụa, la lối:
- Thả tôi
ra!
Chỉ nghe một tiếng cạch, từ trong
người cô một vật gì rơi ra. Quách Tương lại kêu tiếp:
- Lão hòa
thượng, có buông tôi ra không nào?
Vô Sắc thiền sư coi chúng sinh bình
đẳng, không nói gì nam nữ không phân biệt, mà cả đến ngựa bò heo chó, ông cũng
coi như nhau, cười đáp:
- Tuổi tác
lão nạp đáng ông nội của cô rồi còn ngại gì nữa?
Nói rồi hai tay nhẹ nhàng hất ra,
ném Quách Tương ra ngoài hai trượng. Phen này động thủ, tuy Quách Tương bị
khống chế nhưng trong mười chiêu Vô Sắc cũng không nhận ra được cô ta thuộc môn
phái nào, đang toan mở lời nhận thua, vừa cúi đầu, bỗng thấy dưới đất cái gì
đen sì, nhìn kỹ hóa ra hai pho tượng la hán bằng sắt.
Quách Tương vừa đặt chân chấm đất,
hỏi liền:
- Lão hòa
thượng, ông có nhận thua chưa?
Vô Sắc ngửng đầu lên, mặt mày tươi
tỉnh, cười đáp:
- Tại sao ta
lại thua? Ta biết lệnh tôn là đại hiệp Quách Tĩnh, lệnh đường là nữ hiệp Hoàng
Dung. Đào Hoa đảo Hoàng đảo chủ là ông ngoại của cô. Phương danh Quách nhị tiểu
thư, chỉ có một chữ Tương lấy từ hai chữ Tương Dương. Lệnh tôn học từ Giang Nam
thất quái, Đào Hoa đảo chủ, Cửu Chỉ thần cái, và phái Toàn Chân. Quách nhị tiểu
thư gia học uyên nguyên, thân thủ quả nhiên không giống người thường.
Ông nói một hồi khiến Quách Tương đứ
người, trợn tròn đôi mắt, một hồi lâu không nói được câu nào, nghĩ thầm: “Lão
hòa thượng này quả nhiên tà môn, ta đánh mười chiêu lung tung như thế mà ông ta
vẫn nhận ra được”.
Vô Sắc thiền sư thấy cô ta ngơ ngẩn,
cười hì hì nhặt đôi la hán bằng sắt lên, nói:
- Quách nhị
cô nương, lão hòa thượng không lừa cô bé con đâu. Ta nhận ra cô là ở đôi la hán
này. Dương đại hiệp vẫn mạnh khỏe chứ, lâu nay cô có gặp ông ta không?
Quách Tương sựng người, nhưng hiểu
ra ngay, nói liền:
- À, thì ra
ông chính là Vô Sắc thiền sư, đôi la hán sắt này chính ông gửi tặng cho tôi làm
quà sinh nhật, nên đã nhận ra. Ông có gặp đại ca của tôi và Long tỉ tỉ không?
Tôi đi lên đây chính là mong gặp được ông để hỏi thăm tin tức hai người. Ôi,
ông không hiểu ra, tôi nói đại ca ca và Long tỉ tỉ là nói đến vợ chồng đại hiệp
Dương Quá đó.
Vô Sắc nói:
- Mấy năm
trước, Dương đại hiệp có ghé tệ tự chuyện trò ít ngày, cùng lão hòa thượng rất
tương đắc. Về sau nghe tin ông ta kháng địch tại thành Tương Dương, lão nạp
vâng lệnh Dương đại hiệp, lập được chút công lao nho nhỏ. Không hiểu lúc này
ông ta ở đâu?
Cả hai người đều hỏi tin tức Dương
Quá, ông hỏi một câu, tôi hỏi một câu, chẳng ai trả lời câu hỏi của người kia.
Quách Tương thẫn thờ một hồi, rồi nói:
- Ông cũng
chẳng biết đại ca tôi ở đâu ư? Vậy thì ai biết được bây giờ?
Nàng định thần lại nói tiếp:
- Ông là bạn
thân của đại ca tôi, thảo nào võ công cao minh như vậy. Ồ, tôi chưa cám ơn ông
đã gửi quà sinh nhật, hôm nay xin cảm tạ vậy.
Vô Sắc cười đáp:
- Bọn mình
thật đúng là không đánh nhau thì không biết là người quen. Khi nào cô gặp Dương
đại hiệp, đừng có mách là lão hòa thượng cậy lớn hiếp bé.
Quách Tương lặng nhìn ngọn núi ở xa
xa, lẩm bẩm một mình:
- Không biết
đến bao giờ mới gặp lại được anh ta!
Hồi Quách Tương sinh nhật mười sáu
tuổi, Dương Quá nảy ra một ý tưởng ngộ nghĩnh, mời hết thảy đồng đạo giang hồ
tụ tập tại Tương Dương để chúc mừng. Khi đó vô số võ lâm cao thủ trong cả hắc
đạo lẫn bạch đạo, nể mặt Dương Quá nên đến chúc thọ. Người nào bận quá không đi
được thì cũng phái người đem quà quí giá đến biếu. Vô Sắc thiền sư sai người
mang đến một đôi la hán đúc bằng sắt rất tinh xảo. Đôi la hán này trong bụng có
máy, lên dây cót là có thể đấu với nhau một bài Thiếu Lâm La Hán quyền. Hơn một
trăm năm trước, một dị tăng trong chùa đã hao phí không biết bao nhiêu tâm
huyết mới chế tạo được, thực khéo léo không gì sánh bằng. Quách Tương thích
lắm, lúc nào cũng mang theo trong người, không ngờ hôm nay từ trong bọc rơi ra,
khiến cho Vô Sắc thiền sư nhận ra thân phận. Chiêu quyền pháp Thiếu Lâm sau
cùng nàng sử dụng chính là học từ đôi la hán này.
Vô Sắc cười nói:
- Tuân theo
qui củ của tệ tự từ trước tới nay, không dám mời Quách nhị cô nương vào chùa
vãn cảnh, xin mở lượng bao dung.
Quách Tương điềm nhiên đáp:
- Không sao
cả, điều tôi muốn hỏi ông, thì cũng đã hỏi rồi.
Vô Sắc lại chỉ Giác Viễn:
- Còn chuyện
Giác Viễn sư đệ đây, từ từ ta sẽ giải thích cho cô nương nghe. Thôi thế này, để
lão hòa thượng tiễn cô xuống núi, mình tìm một quán ăn, để lão đứng mời cô uống
một bữa rượu, cô nghĩ thế nào?
Vô Sắc thiền sư tại chùa Thiếu Lâm
địa vị hết sức cao, vậy mà đối với một cô gái nhỏ lại hết sức tôn kính, đã thân
tiễn nàng xuống núi, lại còn đứng mời ăn, nên chúng tăng nghe vậy đều lấy làm
lạ.
Quách Tương nói:
- Đại sư
không việc gì phải khách sáo thế. Tiểu nữ ra tay không biết nặng nhẹ, khiến đắc
tội cùng mấy vị hòa thượng, không bắt tội là may. Nay xin từ biệt, mong có dịp
sẽ gặp lại.
Nói xong cúi mình thi lễ, rồi quay
xuống núi. Vô Sắc cười:
- Cô không
muốn tôi đưa tiễn, nhưng tôi lại muốn. Sinh nhật cô nương năm trước, lão hòa
thượng vâng lệnh Dương đại hiệp đi đốt lương thảo của quân Mông Cổ tại Nam
Dương, sau khi lửa cháy, về chùa ngay, không đến Tương Dương chúc mừng được,
trong lòng vẫn thấy chưa an. Hôm nay có dịp quang lâm tệ tự, nếu không cung
kính tiễn đưa ba mươi dặm, thì còn là gì đạo tiếp đãi quí khách?
Quách Tương thấy ông ta thành ý, lại
thấy ngôn ngữ hào sảng, nên cũng muốn cùng ông ta kết bạn vong niên, nên chỉ
mỉm cười, nói:
- Thế thì đi
vậy!
Hai người song hành cùng xuống núi,
đi qua một tòa nhà tranh, bỗng nghe đằng sau có tiếng chân người vọng đến. Quay
lại, chỉ thấy Trương Quân Bảo đi lẳng lặng ở đằng xa, không dám tới gần. Quách
Tương cười:
- Trương
huynh đệ, cậu cũng tiễn khách xuống núi đấy ư?
Trương Quân Bảo đỏ mặt, chỉ đáp cụt
lủn:
- Vâng!
Vừa lúc ấy, từ cửa trước một tăng
nhân rảo bước chạy xuống. Y xem ra thi triển toàn lực khinh công nên trông rất
gấp rút. Vô Sắc hơi nhíu mày, nói:
- Làm gì mà
hốt hoảng quá vậy?
Nhà sư đó chạy đến trước mặt Vô Sắc,
cúi chào xong nghiêng người nói nhỏ mấy câu. Vô Sắc biến sắc, nói lớn:
- Có chuyện
như vậy sao?
Tăng nhân nói:
- Phương
trượng mời thủ tọa về chùa thương nghị.
Quách Tương thấy vẻ mặt Vô Sắc xem
chừng khó xử, biết là trong chùa ắt có chuyện khẩn cấp, nên nói:
- Lão thiền
sư, chuyện giao thiệp bạn bè, cốt là ở lòng, chứ những lề thói phàm tục có đáng
gì! Ông có chuyện xin cứ về. Sau này có dịp gặp lại, có duyên giải cấu, mình
lại uống rượu, luận võ, có gì mà không được?
Vô Sắc mừng nói:
- Thảo nào
Dương đại hiệp coi trọng cô như thế, cô quả là bậc nhân trung anh tuấn, nữ
trung trượng phu, lão hòa thượng muốn được cùng cô kết làm bạn.
Quách Tương mỉm cười:
- Ông là bạn
của đại ca tôi, thì cũng là bạn của tôi rồi.
Thế rồi hai người thi lễ từ biệt. Vô
Sắc quay trở về chùa. Quách Tương đi theo con đường nhỏ đi xuống núi, Trương
Quân Bảo lẽo đẽo đi sau, cách chừng năm sáu bước, không dám đi ngang hàng.
Quách Tương hỏi:
- Trương
huynh đệ, vì cớ gì mà bọn họ lại hiếp đáp sư phụ của cậu thế? Sư phụ cậu nội
công tinh thâm, sao lại sợ họ?
Trương Quân Bảo tiến lên hai bước
đáp:
- Trong chùa
giới luật tinh nghiêm, ai ai trong tăng chúng nếu như phạm tội đều bị phạt cả,
chứ đâu phải cố ý hiếp đáp sư phụ đâu.
Quách Tương lấy làm lạ, hỏi lại:
- Sư phụ cậu
là người chính nhân quân tử, trong thiên hạ đâu có mấy ai tốt như ông ấy, mà
lại phạm tội gì? Chắc là ông ấy chịu phạt giùm người khác, nếu không, chắc là
bị phạt lầm rồi?
Trương Quân Bảo thở dài:
- Nguyên ủy
chuyện này cô nương cũng đã biết rồi, chính là vì bộ Lăng Già[3] kinh.
Quách Tương nói:
- À, có phải
là cuốn kinh mà hai gã Tiêu Tương Tử và Doãn Khắc Tây ăn trộm đó không?
Trương Quân Bảo nói:
- Chính đó.
Hôm đó trên đỉnh Hoa Sơn, tiểu nhân được đại hiệp Dương Quá chỉ điểm, tự tay
khám toàn thân hai gã đó, nhưng khi xuống núi rồi, không còn thấy tung tích gì
của họ cả. Thầy trò chúng tôi không còn biết gì hơn, chỉ còn về chùa bẩm báo
phương trượng. Bộ Lăng Già kinh là do chính tay tổ sư Đạt Ma viết ra, thủ tọa
giới luật đường trách sư phụ tôi giữ kinh không cẩn thận, đã làm mất bảo vật vô
giá đó, nên phạt thật nặng, âu cũng là chuyện phải thôi.
Quách Tương thở dài một tiếng:
- Việc xử
tội sám hối như thế, sao lại phải được.
Tuy nàng chỉ lớn hơn Trương Quân Bảo
vài tuổi nhưng đã tự coi như đàn chị, nên hỏi thêm:
- Nếu chỉ
như thế, tại sao lại không cho sư phụ cậu không được nói năng gì?
Trương Quân Bảo nói:
- Đó là giới
luật truyền từ đời này sang đời khác của chùa, hễ gánh nước, không được nói
chuyện. Tôi nghe các vị lão thiền sư trong chùa nói là, tuy là bị phạt, nhưng
thực ra đối với người có tội rất tốt. Nếu như không nói chuyện, việc tu tập
càng mau tinh tiến, còn trên vai gánh nước, làm cho thể phách cường tráng.
Quách Tương cười:
- Nếu nói
như thế, sư phụ cậu không phải chịu phạt, mà lại là đang luyện công, còn tôi
thì đúng là nhiều chuyện.
Trương Quân Bảo vội nói:
- Lòng tốt
của cô nương, thầy tôi và tôi mười phần cảm kích, vĩnh viễn không dám quên.
Quách Tương thở nhẹ một hơi, nghĩ
thầm: “Vậy mà người đời đã quên hẳn ta rồi”. Bỗng nghe thấy trong rừng có tiếng
lừa kêu, chính là con lừa đen đang ăn cỏ. Quách Tương nói:
- Trương
huynh đệ, cậu không cần phải tiễn tôi xa hơn nữa.
Nàng chu miệng huýt một tiếng, gọi
con lừa lại gần. Trương Quân Bảo vẫn còn lưu luyến chưa muốn rời, nhưng cũng
không biết chuyện gì để nói.
Quách Tương lấy đôi thiết la hán
trong bọc ra, nói:
- Ta cho cậu
cái này, cầm lấy đi.
Trương Quân Bảo ú ớ:
- Tôi...
tôi...
Quách Tương đặt đôi la hán vào tay
y, nhún người một cái, đã nhảy lên lưng lừa. Đột nhiên tại bậc đá trên sườn núi
có tiếng người gọi:
- Quách nhị
cô nương, xin dừng chân.
Chính là Vô Sắc thiền sư từ cửa chùa
chạy xuống. Quách Tương nghĩ thầm:
- Lão hòa thượng
này thật câu nệ đa lễ, việc gì mà phải nhất định đưa tiễn ta?
Vô Sắc đi rất nhanh, chỉ nháy mắt đã
đến trước mặt Quách Tương. Ông ta nói với Trương Quân Bảo:
- Ngươi về
chùa đi, đừng chạy lăng quăng trong núi.
Vô Sắc đợi y đi khỏi, lấy trong tay
áo ra một tờ giấy, nói:
- Quách nhị
cô nương, cô xem có biết ai viết giấy này không?
Quách Tương xuống lừa, tiếp lấy nhìn
qua, hóa ra là một tờ hoa tiên vẫn dùng đề thơ, trên có hai hàng chữ lằng
ngoằng:
Võ công phái Thiếu Lâm, xưng hùng
Trung Nguyên, Tây Vực đã lâu. Mười ngày sau, Côn Lôn Tam Thánh sẽ đến lĩnh
giáo.
Nét bút rất cứng cỏi. Quách Tương
hỏi:
- Côn Lôn
Tam Thánh là ai thế, ba người này khẩu khí xem chừng phách lối lắm nhỉ?
Vô Sắc nói:
- Hóa ra là
cô nương không quen biết những người này.
Quách Tương lắc đầu:
- Tôi không
biết, mà cả cái tên Côn Lôn Tam Thánh cũng chưa nghe cha mẹ tôi nói đến bao
giờ.
Vô Sắc nói:
- Cái đó mới
là lạ.
Quách Tương hỏi:
- Lạ là thế
nào?
Vô Sắc đáp:
- Cô nương
với ta nhất kiến như cố, có nói thật cho cô biết cũng không sao. Cô nương thử
đoán xem tờ giấy này từ đâu mà có?
Quách Tương nói:
- Phải chăng
Côn Lôn Tam Thánh sai người mang đến?
Vô Sắc đáp:
- Nếu như
sai người mang đến thì không có gì kỳ quái. Người đời thường nói là cây cả gió
to, chùa Thiếu Lâm mấy trăm năm nay vẫn được gọi là võ học chi nguyên, nên
không lúc nào không có cao thủ đến thử tài. Mỗi khi có nhân vật võ lâm đến,
chúng tôi đều hết sức tử tế, nói đến chuyện tỉ võ đều từ chối. Đã là người tu
hành phải tránh sân nộ, không thể sính cường tranh thắng. Còn nếu ngày nào cũng
đánh nhau với người ta, thì nói là đệ tử cửa Phật sao được?
Quách Tương gật đầu:
- Phải lắm!
Vô Sắc nói tiếp:
- Ngặt một
nỗi võ sư đã lên đến trên chùa, nếu như không hiển được chút thân thủ thì chẳng
cam lòng. La Hán đường của Thiếu Lâm chính là để tiếp những võ sư bên ngoài đến
viếng cảnh chùa.
Quách Tương cười:
- Hóa ra đại
hòa thượng giữ chức vụ đi đánh nhau với người ngoài.
Vô Sắc sượng sùng:
- Võ sư đến
đây dù cao cường đến đâu, thì bản đường đệ tử cũng có thể đảm đương được cả,
không cần phải đến lão hòa thượng ra tay. Hôm nay vì chưng cô nương thân thủ
bất phàm, nên lão mơi thử một chút.
Quách Tương cười đáp:
- Hóa ra đại
sư coi trọng tôi quá.
Vô Sắc nói:
- Không phải
đến đây để nói chuyện đó với cô đâu. Không dám dấu, tờ giấy này chúng tôi lấy
từ bàn tay pho tượng Hàng Long La Hán ở La Hán Đường.
Quách Tương lấy làm lạ, hỏi:
- Ai lại để
trên tay tượng Phật như thế nhỉ?
Vô Sắc lắc đầu:
- Cũng không
biết nữa. Trong mấy trăm tăng chúng chùa Thiếu Lâm chúng tôi, nếu như có ai lẻn
vào, chẳng lẽ không thấy? La Hán Đường lúc nào cũng có tám đệ tử ngày đêm luân
phiên canh gác. Khi có người trông thấy tờ giấy này lập tức phi báo lão phương
trượng, ai ai cũng lấy làm lạ, nên mới triệu lão về chùa thương nghị.
Quách Tương nghe đến đây, đã hiểu ý,
nên nói:
- Phải chăng
ông nghi tôi thông đồng với Côn Lôn Tam Thánh ở bên ngoài gây rối, để cho ba gã
kia lẻn vào La Hán Đường để tờ giấy này, phải thế không?
Vô Sắc nói:
- Tôi đã gặp
cô rồi quyết không thể nào nghi cho cô được. Thế nhưng việc cũng trùng hợp lạ
kỳ, cô nương vừa rời chùa, thì tờ giấy này lại xuất hiện tại La Hán Đường,
thành thử phương trượng và Vô Tướng sư đệ không khỏi không nghi.
Quách Tương nói:
- Tôi không
biết ba gã này là ai. Đại hòa thượng, ông việc gì phải sợ? Mười ngày nữa, nếu
như họ có gan đến đây, thì cứ xem hai bên cao thấp thế nào.
Vô Sắc nói:
- Sợ thì có
gì đâu mà sợ. Nếu như cô nương với họ không có liên quan gì, tôi không có gì phải
áy náy cả.
Quách Tương thấy ông ta quả có lòng
tốt, chỉ ngại Côn Lôn Tam Thánh là chỗ quen biết với mình, khi động thủ ắt có
nhiều điều cấm kỵ, ngại rằng sẽ đắc tội với bạn bè, nên nói:
- Nếu như họ
thực lòng đến tìm hiểu võ nghệ, thì không nói làm gì. Còn không, cứ việc cho họ
một phen khốn khổ. Cứ theo tờ giấy này khẩu khí xem ra cuồng vọng lắm. Cái gì
mà “một phen lãnh giáo” là sao?
Nàng nói tới đây, chợt nghĩ ra một
việc nên tiếp:
- Hay là có
ai trong chùa cấu kết, lén bỏ vào tờ giấy này chăng? Nếu thế cũng không lấy gì
làm lạ.
Vô Sắc nói:
- Chuyện đó
chúng tôi cũng đã nghĩ tới rồi, nhưng nhất định không thể có. Tay của Hàng Long
La Hán cao đến hơn ba trượng, ngày thường muốn phủi bụi trên pho tượng này,
cũng phải bắc giá cao. Nếu có kẻ nào nhảy lên tới đó, khinh công giỏi như thế
không phải là nhiều. Nếu như trong chùa có phản đồ thì tài nghệ cũng không đạt
tới mức đó.
Lòng hiếu kỳ của Quách Tương nổi
lên, rất muốn xem thử ba gã Côn Lôn Tam Thánh xem họ là hạng người nào, tăng
chúng chùa Thiếu Lâm cùng họ tỉ thí võ nghệ, kết quả ai thắng ai bại, ngặt là
chùa Thiếu Lâm không tiếp nữ khách, xem ra cái trò vui này không cách nào coi
tận mắt được.
Vô Sắc thấy cô cúi đầu suy nghĩ, lại
tưởng cô đang trù liệu kế sách hộ cho chùa Thiếu Lâm, nên nói:
- Chùa Thiếu
Lâm cả nghìn năm qua đã chịu không biết bao nhiêu sóng to gió cả, còn tồn tại
đến hôm nay. Nếu bọn Côn Lôn Tam Thánh kia nhất định cùng chúng tôi qua lại một
phen, chùa Thiếu Lâm thể nào cũng cùng với họ chu toàn. Quách cô nương, nửa
tháng nữa, cô ở trên chốn giang hồ sẽ nghe tin tức, để xem Côn Lôn Tam Thánh có
lật đổ được chùa Thiếu Lâm không?
Nói tới đây, hào khí của ông lại nổi
lên bừng bừng như thời trai trẻ. Quách Tương cười đáp:
- Đại hòa
thượng bỗng dưng nổi giận, ông nói năng như thế sao còn gọi là đệ tử nhà Phật
được nữa? Tốt lắm, tôi mong nửa tháng nữa sẽ nghe được tin vui.
Nói xong nàng quay mình nhảy lên
lưng lừa. Hai người nhìn nhau cùng cười. Quách Tương giục con lừa đi lững thững
xuống chân núi, trong lòng đã định bụng không thể nào không lên xem trận đấu.
Cô nghĩ thầm: “Làm cách nào mười
ngày sau mình lẻn được vào chùa Thiếu Lâm để xem cái cảnh đáng xem này? Chỉ e
mấy gã Côn Lôn Tam Thánh chẳng có chân tài thực học, bị mấy nhà sư đánh cho vài
cái đã thua, thì có gì là thú. Chỉ mong bọn họ chỉ cần được bằng một nửa gia
gia, ông ngoại, hoặc đại ca, thì cái màn Côn Lôn Tam Thánh đại náo Thiếu Lâm tự
kia mới đáng đến coi”.
Nghĩ đến Dương Quá, trong lòng lại
thấy u uất, ba năm qua đi khắp nơi tìm kiếm, vẫn không thấy bóng dáng tăm hơi.
Im
lìm cổ mộ núi Chung Nam,
Vạn
Hoa hoa rụng tiếng mang mang.
Hang
núi Tuyệt Tình sao vắng lặng,
Đìu
hiu trăng lạnh bến Phong Lăng.
(Chung
Nam sơn, cổ mộ trường bế,
Vạn
Hoa huyễn, hoa lạc vô thanh.
Tuyệt
Tình cốc, không sơn tịch tịch,
Phong
Lăng độ, lãnh nguyệt minh minh)
Thế nhưng, trong đầu nàng cũng đã
nghĩ không biết bao nhiêu lần: “Thực ra, dẫu ta có kiếm được y, thì cũng để làm
gì? Chẳng càng thêm buồn khổ, thêm sầu não? Y đi xa xôi biệt tăm biệt tích
chẳng tốt hơn ư? Đã biết rằng đi tìm y có khác gì đi tìm hoa trong gương, trăng
dưới nước, nhưng sao ta vẫn cứ nghĩ đến, vẫn muốn đi tìm”.
Nàng cứ để cho con lừa tự thả bước,
đi lang thang trong vùng núi Thiếu Thất, theo hướng tây đã vào địa giới của
Tung Sơn. Quay đầu nhìn lại ngọn đông phong của núi Thiếu Thất chỉ thấy cao vút
xanh xanh, núi nọ liền núi kia bất tận. Cứ như thế nàng đi mấy ngày liền, một
ngày kia đã tới đài Tam Hưu, nghĩ thầm: “Sao lại tam hưu, mà là ba cái hưu
(điều tốt lành) nào? Đời người có thiên hưu, vạn hưu đâu phải chỉ tam hưu?”.
Lại rẽ qua hướng bắc, đi qua một
đỉnh núi, thấy đến mấy trăm gốc cổ bách, cây nào cũng thẳng cao vòi vọi, ánh
mặt trời chiếu xuống thành những đốm hoa, thật là rực rỡ. Quách Tương đang ngắm
cảnh, bỗng nghe thấy từ bên kia sườn núi văng vẳng nghe đâu tiếng đàn vọng đến,
lấy làm lạ lùng, nghĩ thầm: “Ở nơi hoang tịch này, sao lại có cao nhân nhã sĩ
đến đây gẩy đàn”. Nàng từ bé được mẹ dạy, cầm kỳ thư họa, môn nào cũng biết,
tuy chưa sâu sắc, nhưng tính thông tuệ, lại trời sinh hay nhìn xa nghĩ rộng,
mỗi khi cùng mẫu thân luận cầm, đàm thư, thỉnh thoảng cũng có những tư tưởng
độc đáo, tìm ra được những điều chưa ai nghĩ đến. Lúc này nghe thấy tiếng đàn,
nổi tính hiếu kỳ, nên xuống lừa, theo tiếng đàn tìm đến.
Đi qua hơn mươi trượng, lại nghe
thấy lẫn trong tiếng đàn có lẫn vô số tiếng chim, lúc đầu chưa chú ý, nhưng
nghe kỹ, tiếng đàn dường như cùng tiếng chim đối đáp, líu líu lo lo, dặt dìu
uyển chuyển. Quách Tương náu mình sau gốc cây, nhìn về phía có tiếng đàn phát
ra, chỉ thấy một người đàn ông mặc áo trắng ngồi quay lưng lại giữa ba gốc tùng
già, trong lòng để một cây tiêu vĩ cầm, đang gảy đàn. Trên những cành cây chung
quanh người đó đậu đầy chim sẻ, hoàng oanh, đỗ quyên, bát ca, và còn vô số
những con chim khác nàng không biết tên cùng với tiếng đàn, hoặc kẻ hỏi người
đáp, hoặc cùng cất giọng xướng theo. Quách Tương nghĩ thầm: “Mẹ ta nói rằng
trong các điệu đàn có một khúc tên là “Không Sơn Điểu Ngữ”, thất truyền đã lâu,
phải chăng chính là khúc đàn này?”.
Nghe một lát, tiếng đàn mỗi lúc một
vang thêm, nhưng mỗi lần tiếng đàn lên cao, thì đàn chim lại ngưng tiếng, chỉ
nghe thấy tiếng vỗ cánh, đông tây nam bắc bốn phía bay lại vô số là chim, con
thì đậu trên cành, con thì bay lượn lên xuống, lông chim bay phất phới, thật là
lạ mắt. Tiếng đàn tuy bình hòa trung chính nhưng bên trong có ẩn một phong vị
vương giả.
Quách Tương trong lòng càng thêm
kinh hãi: “Người này có thể dùng tiếng đàn để tập hợp đàn chim, phải chăng bản
đàn này là Bách Điểu Triều Phượng? Tiếc thay không có ông ngoại ở đây, nếu
không sẽ dùng cây ngọc tiêu thiên hạ không ai sánh kịp đem ra hòa nhịp, có thể
gọi là song tuyệt đời nay”.
Người đó đàn đến khúc cuối, tiếng
đàn nhỏ dần, tất cả chim chóc trên cây cùng bay ra múa may một lượt. Bỗng dưng
nghe một tiếng keng, tiếng đàn dứt hẳn, đàn chim bay thêm một hồi rồi từ từ bay
đi mỗi con một phía.
Người đó tiện tay đưa lên dây đàn
gảy thêm vài đoạn ngắn, ngẩng đầu lên nhìn trời thở dài, nói:
- Vỗ trường
kiếm, dương mi lên, nước trong đá trắng sao xa cách? Thế gian này nếu không có
kẻ tri âm, dù sống đến nghìn tuổi, phỏng có ích gì?
Nói đến đây, đột nhiên từ đáy chiếc
đàn người đó rút ra một thanh trường kiếm, ánh xanh lấp lánh, chiếu ra trong
rừng. Quách Tương nghĩ thầm: “Nguyên lai người này văn võ toàn tài, không biết
kiếm pháp của y ra sao”.
Chỉ thấy y chậm rãi đi tới bãi đất
trống trước một câu cổ tùng, mũi kiếm chỉ xuống đất, gạch tới gạch lui, hết
vạch này tới vạch khác. Quách Tương lấy làm lạ: “Trên thế gian có loại kiếm
pháp kỳ quái đến thế sao? Chẳng lẽ chỉ trỏ kiếm xuống đất vạch một hồi, có thể
khắc địch chế thắng? Người này quả thật quái dị không thể nào đo lường được.”
Y vạch một hồi, thấy gạch ngang mười
chín nét, rồi đổi qua gạch dọc, tất cả cũng mười chín nét. Kiếm chiêu trước sau
không thay đổi, dù dọc hay ngang cũng chỉ thẳng băng như chữ nhất. Quách Tương
theo dõi kiếm thế của y, cũng đưa tay vạch lên đất mười chín nét, bỗng dưng bật
cười, y đâu có sử dụng quái dị kiếm pháp nào đâu, mà chỉ dùng kiếm vạch thành
một bàn cờ dọc ngang mỗi chiều mười chín nét.
Người đó vẽ bàn cờ xong, dùng mũi
kiếm vẽ tại góc trái bên trên và góc phải bên dưới mỗi nơi một vòng tròn, lại
tại góc phải bên trên và góc trái bên dưới mỗi nơi vẽ một vạch chéo. Quách
Tương đã thấy y vẽ đây là một bàn cờ vây, biết y đang bố trí trận thế tại bốn
góc, hình tròn là bên trắng, hình chéo là bên đen. Lại thấy y đặt một vòng tròn
cách ba ô trên góc trái, lại cách dưới hai ô vạch một hình chéo. Đi đến nước
thứ mười chín, y chống kiếm đứng, cúi đầu suy nghĩ, đang phân vân không biết
nên bỏ quân giữ thế hay cố sức tranh góc cạnh.
Quách Tương nghĩ thầm: “Người này
cũng chẳng khác gì ta, thật là tịch mịch, ở trong núi hoang gảy đàn, lấy chim
chóc làm tri âm; đánh cờ lại cũng không có đối thủ, chỉ tự mình đánh với mình.”
Người đó suy nghĩ một hồi, quân
trắng không cách gì lơi ra được, trên góc trái đấu với quân đen thật kịch liệt,
nhất thời chưa tìm ra cách nào hay, từ bắc xuống nam không thể nào tranh được
phúc địa ở Trung Nguyên. Quách Tương xem cờ xuất thần, từ từ nhích lại gần,
nhưng vì quân trắng lúc bo cục bị thua một nước, trước sau vẫn bị rơi vào hạ
phong, đến nước thứ hai mươi ba thì gặp phải liên hoàn kiếp, bên quân trắng lâm
vào thế nguy, nhưng y vẫn cố gắng chống đỡ. Người đời thường nói “Cờ ngoài bài
trong”, ý nói người đứng ngoài coi đánh cờ bao giờ cũng sáng nước hơn. Quách
Tương đánh cờ cũng chỉ bình bình, nhưng nhìn thấy thế cục nếu bên trắng còn
đánh giằng dai không khỏi toàn quân bị mất, nên buột miệng nói:
- Sao không
bỏ Trung Nguyên đi để lấy Tây Vực?
Người nọ giật mình, thấy trên bàn cờ
phía tây còn một chỗ trống lớn, nên lợi dụng bên kia đang chặn bắt, để luôn hai
quân, chiếm lấy chỗ yếu, tuy bỏ nửa chừng nhưng biến được thành thế không thắng
không bại. Người đó được Quách Tương một lời nhắc nhở, ngửng mặt lên trời cười
một hồi dài, luôn mồm: “Hay lắm, hay lắm”. Nói rồi hạ luôn mấy quân. Y chợt
nghĩ ra có người đang ở bên cạnh, nên ném trường kiếm xuống đất, quay lại nói:
- Vị cao
nhân nào đó đã chỉ dạy, tại hạ thật là cảm kích.
Nói rồi hướng về phía Quách Tương
đang ẩn náu vái chào một cái.
Quách Tương thấy người này mặt dài
mắt sâu, thân hình gầy guộc, độ chừng trên dưới ba mươi tuổi. Nàng vốn dĩ
khoáng đạt, cũng không tị hiềm nam nữ, nên từ trong bụi hoa bước ra, mỉm cười:
- Mới rồi
được nghe tiên sinh nhã tấu, không sơn điểu ngữ, bách cầm lai triều, thật lấy
làm bội phục. Lại thấy tiên sinh vạch đất thành bàn cờ, đen trắng giao phong,
khiến cho phải say mê theo dõi mà quên cả hình hài, nên nhịn không được nên góp
một lời, xin rộng lòng tha thứ.
Người nọ thấy Quách Tương chỉ là một
cô gái tuổi trẻ, lấy làm lạ lùng, nhưng nghe cô nói về tiếng đàn, quả nhiên
không sai một mảy nên càng cao hứng, nói:
- Cô nương
thông thạo cầm lý, nếu như không từ chối, xin cho được nghe một điệu.
Quách Tương cười đáp:
- Mẹ tôi tuy
đã dạy tôi đánh đàn, nhưng so với thần kỹ của ngài, thì kém xa lắm. Thế nhưng
đã được nghe tiếng đàn kỳ diệu của ngài, không đáp lễ một bản, thì xem ra không
phải lẽ. Được rồi, tôi xin đàn một bản, nhưng xin ông đừng cười nhé.
Người kia đáp:
- Đâu dám.
Hai tay bưng cây dao cầm[4], đưa tới trước mặt Quách Tương. Quách Tương thấy chiếc đàn đó
đã có nhiều vết loang lổ, hiển nhiên đã cũ lắm rồi, nên lên dây xong bắt đầu
gẩy một khúc “Khảo Bàn”. Thủ pháp nàng không có gì thần kỳ, nhưng người đó nghe
vừa mừng vừa sợ, nghe tiếng đàn mà tưởng đến lời từ:
Suối
kia róc rách vỗ bàn,
Lòng
ta thanh thản như làn nước khe.
Dù
ai nói tỉnh nói mê,
Một
mình mình biết chẳng hề nhãng quên.
Khảo
bàn tại giản,
Thạc
nhân chi khoan,
Độc
mị ngụ ngôn,
Vĩnh
thỉ vật huyên[5]”.
Bài từ đó ở Thi Kinh mà ra, là bài
ca của một ẩn sĩ nói đại trượng phu đi du ngoạn trong khe suối, đi đâu thì đi,
tuy tịch mịch không ai bầu bạn, mặt mày tiều tụy, nhưng chí hướng cao khiết,
không bao giờ thay đổi. Người đó nghe tiếng đàn nói đúng tâm sự mình, không thể
không cực kỳ cảm kích. Tiếng đàn đã dứt rồi mà y vẫn còn đứng ngơ ngơ ngẩn
ngẩn.
Quách Tương nhẹ nhàng để chiếc dao
cầm xuống, quay mình đi ra khỏi rừng tùng, cất tiếng hát:
Vỗ
bàn lồng lộng gò đây,
Lòng
ta son sắt như cây trục này.
Dù
người nói tỉnh nói say,
Một
mình mình biết ai hay làm gì.
Khảo
bàn tại lục,
Thạc
nhân chi trục,
Độc
mị độc túc,
Vĩnh
thỉ vật cáo[6].
Nàng vẫy con lừa lại nhảy lên
đi thẳng vào trong khu rừng sâu.
Nàng đi lại trong giang hồ đã ba năm
qua, từng gặp nhiều chuyện lạ lùng, người này dùng tiếng đàn để gọi chim, lại
vạch đất thành bàn tự mình đánh cờ, với nàng cũng chẳng qua như mây khói trước
mặt, cánh bèo làn gió khi tụ khi tan, qua đi không để lại dấu vết gì.
Lại hai ngày qua, bấm đốt ngón tay
tính ra từ hôm nàng tiến vào làm huyên náo chùa Thiếu Lâm đã được mười ngày,
cũng là ngày Côn Lôn Tam Thánh ước định đến chùa giảo nghiệm võ công. Quách
Tương chưa nghĩ ra cách nào để có thể lẻn vào chùa xem trò vui, nghĩ thầm: “Mẹ
ta chuyện gì cũng chỉ liếc mắt một cái, là đã nghĩ ra ngay mười bảy, mười tám
diệu kế. Sao ta ngu đến vậy, đến một kế cũng nghĩ không ra. Được rồi, không cần
biết, cứ đến bên ngoài chùa Thiếu Lâm xem xét rồi hãy hay. Có khi bọn họ mắc
đối phó ngoại địch khẩn cấp, nên quên bẵng ngăn ta lên chùa không chừng.”
Nàng ăn qua loa mấy món lương khô,
lại cưỡi con lừa đen nhằm hướng chùa Thiếu Lâm. Khi nàng còn cách chùa độ chừng
mươi dặm, bỗng nghe tiếng vó ngựa dồn dập, từ phía sơn đạo bên trái có ba người
nối đuôi nhau chạy tới. Ba con ngựa bước chân nhanh nhẹn, chỉ trong chớp mắt đã
vượt ngang bên Quách Tương, chạy thẳng lên phía chùa Thiếu Lâm. Trên lưng ngựa
là ba người trạc độ trên dưới năm mươi, mặc áo ngắn bằng vải xanh, trên yên
ngựa người nào cũng mang theo túi vải đựng binh khí.
Quách Tương chợt động tâm, nghĩ
thầm: “Ba người này đều có võ công, hôm nay lại đeo binh khí lên chùa Thiếu
Lâm, hẳn là Côn Lôn Tam Thánh rồi! Nếu ta chậm một bước, thì chắc không được
coi cái màn vui này.” Nàng giơ tay đánh lên mông con lừa một cái, con vật ngửng
đầu hí một hồi dài, lao đầu chạy lẽo đẽo theo ba con ngựa.
Những người cưỡi ngựa ra roi, ba con
ngựa chạy thẳng lên núi, cước lực thật nhanh, chỉ nháy mắt đã bỏ con lừa của
Quách Tương một quãng thật xa, không cách gì đuổi kịp. Một ông già quay đầu lại
nhìn Quách Tương một cái, trên mặt lộ vẻ lạ lùng.
Quách Tương lại ra sức chạy theo
hai, ba dặm nữa, nhưng tung tích ba con ngựa kia không còn thấy đâu. Con lừa
chạy một hồi lâu, miệng thở phì phò, xem chừng không còn chịu nổi. Quách Tương
mắng nó: “Thật là đồ súc sinh không ra giống gì, bình thời thì nổi chứng chạy
loạn lên, lúc cô nương cần ngươi, thì ngươi lại chạy không bằng ai”. Nàng thấy
có giục nó cũng chẳng đến đâu, nên dừng lại một tòa thạch đình bên đường nghỉ
ngơi một lát, để cho con lừa xuống suối bên cạnh uống nước. Một lúc sau, bỗng
nghe tiếng vó ngựa vang lên, ba con ngựa hồi nãy lại qua một khúc quanh, chạy
ngược trở lại. Quách Tương lấy làm lạ: “Sao ba người này vừa mới lên đã quay
trở lại, không lẽ họ chịu không nổi một đòn hay sao?”
Ba con ngựa tung vó, dựng bờm chạy
thẳng đến tòa thạch đình, ba người trên ngựa xoay mình nhảy xuống. Quách Tương
nhìn ba người này, thấy một người thân hình thấp lùn, mặt đỏ như chu sa, mũi đỏ
như kẻ nghiện rượu, nhưng miệng cười hề hề xem chừng ôn hòa, dễ thân cận; một
người thì gầy cao như cây tre mieu, mặt mày xanh xao, trong màu trắng có ẩn màu
xanh lục, tưởng như cả đời không ra nắng bao giờ. Hai người này thân hình dung
mạo, không có chỗ nào giống nhau. Người thứ ba tướng mạo bình bình không có gì
lạ, chỉ có da mặt vàng vọt, có vẻ như người đang bệnh hoạn.
Lòng hiếu kỳ của Quách Tương nổi
lên, nên hỏi:
- Này ba vị
lão tiên sinh, quí vị đã đến chùa Thiếu Lâm chưa? Sao vừa mới lên đã trở xuống?
Lão già mặt xanh lườm nàng một cái,
xem chừng khó chịu vì cô đã hỏi lăng nhăng. Ông già thấp lùn mũi đỏ, mặt hồng
hào cười hỏi:
- Sao cô
nương biết là chúng tôi lên chùa Thiếu Lâm?
Quách Tương nói:
- Từ đây trở
lên, không lên chùa Thiếu Lâm thì còn đi đâu?
Ông già mặt đỏ gật đầu:
- Cô nói thế
cũng đúng. Còn cô nương đang định đi đâu?
Quách Tương nói:
- Các ông
lên chùa Thiếu Lâm thì tôi cũng lên chùa Thiếu Lâm.
Ông già mặt xanh nói:
- Chùa Thiếu
Lâm xưa nay không để đàn bà con gái bước chân vào sơn môn một bước, lại không
cho người ngoài đeo binh khí vào chùa.
Giọng nói có vẻ ngạo mạn, thân hình
ông ta lại cao nên nhìn qua đầu nàng, chứ không nhìn vào nàng lấy một lần.
Quách Tương trong lòng bực mình, nói:
- Thế sao
các ông đeo binh khí thì được? Cái bao vải ở bên cạnh yên ngựa kia, chẳng phải
để binh khí thì là gì?
Lão già mặt xanh lạnh lùng nói:
- Ngươi sao
lại sánh được với bọn ta?
Quách Tương cười khẩy một tiếng:
- Ba người
các ông thì là cái gì? Ở đâu mà phách lối vậy? Côn Lôn Tam Thánh đã đấu với các
hòa thượng chùa Thiếu Lâm chưa? Ai thắng ai bại?
Ba ông già đó vẻ mặt lập tức hơi
biến sắc. Ông già mặt đỏ hỏi lại:
- Tiểu cô
nương, làm sao cô biết được chuyện Côn Lôn Tam Thánh?
Quách Tương nói:
- Tự nhiên
tôi phải biết chứ.
Ông già mặt xanh bất thần tiến lên
một bước, gay gắt nói:
- Ngươi họ
gì? Môn hạ của ai? Đến Thiếu Lâm tự làm gì?
Quách Tương vênh mặt lên, nói:
- Ông hỏi
làm gì?
Ông già mặt xanh tính tình nóng nảy,
giơ tay lên, định tát cho cô gái một cái, nhưng nghĩ ra ỷ lớn ăn hiếp nhỏ, đàn
ông bắt nạt đàn bà không vẻ vang gì, mình là hạng người như thế không lẽ hơn
thua với một cô bé con? Thân hình hơi nhích một tí, y giơ tay chộp lấy thanh
đoản kiếm Quách Tương đeo ở bên hông. Ông ta ra tay nhanh đến nỗi không ai có
thể lường được, Quách Tương chỉ thấy một làn gió nhẹ vèo qua, một bóng người
thấp thoáng, bội kiếm đã bị ông ta lấy mất.
Nàng không kịp đề phòng, lại không
ngờ ông già làm thế, từ trước đến nay hành tẩu giang hồ chưa từng gặp phải bao
giờ. Kỳ thực với võ công duyệt lịch như nàng, nếu tại giang hồ đi lại quả thực
hết sức bất lợi, nhưng trong võ lâm, mười người thì đến tám chín biết nàng là
con gái của Quách Tĩnh, Hoàng Dung. Đến sau khi Dương Quá truyền tin chúc mừng
sinh nhật, bàng môn tả đạo ai ai cũng đều biết, nên nếu không nể mặt Quách
Tĩnh, Hoàng Dung thì cũng phải nể mặt Dương Quá. Hơn nữa ngoài dung nhan mỹ lệ,
tính co lại hào sảng hiếu khách, nơi thị tứ dù người kéo xe, bán tương cho đến
đồ tể, phu phen, nếu đã gặp cũng đều mua rượu cùng uống với họ một chén. Thành
thử trên chốn giang hồ tuy phong ba hiểm ác, nàng cũng đều tai qua nạn khỏi,
gặp dữ hóa lành, trước nay chưa bị làm khó dễ bao giờ.
Bây giờ bỗng nhiên bị ông già mặt
xanh đoạt mất kiếm, nhất thời cô không biết phải làm sao, nếu tiến lên đoạt
lại, thì biết võ công không bì kịp, còn nếu bỏ qua, thì trong lòng chịu sao
được?
Ông già mặt xanh dùng ngón tay giữa
và ngón tay trỏ tay trái kẹp lấy bao đoản kiếm, lạnh lùng nói:
- Thanh kiếm
của ngươi, ta tạm giữ. Ngươi có gan vô lễ với ta như vậy, chắc là tại cha mẹ
hay sư trưởng thiếu dạy dỗ. Ngươi bảo họ đến gặp ta để lấy lại thanh kiếm, để
ta tử tế bảo cho họ biết, hầu dạy cho cha mẹ sư trưởng của ngươi một trận.
Câu nói đó làm cho Quách Tương tức
giận đến nỗi mặt đỏ bừng. Nghe ông ta nói đã coi nàng là một đứa trẻ con nhà
mất dạy, nên nghĩ thầm: “Giỏi nhỉ! Ngươi mắng chửi ta, lại còn dám chửi cả ông
ngoại và cha mẹ ta, chắc ngươi có tài thông thiên, nên mới phách lối đến mức
không sợ trời không sợ đất gì cả"..
Nàng định thần, cố nhịn, hỏi:
- Tên ông là
gì?
Ông già mặt xanh hừ một tiếng, nói:
- Cái gì mà
lại “Tên ông là gì?” Ta dạy cho ngươi biết, ngươi phải hỏi là :”Xin thỉnh giáo
tôn tính đại danh của lão tiền bối?”
Quách Tương giận nói:
- Tôi chỉ
hỏi cho biết tên ông vậy thôi. Ông không nói thì thôi, ai phải cầu cạnh? Thanh
kiếm đó có đáng gì đâu? Ông già đầu không biết xấu, ăn cắp, ăn cướp của người
khác, tôi không thèm lấy lại đâu.
Nói xong nàng quay lưng, toan đi ra
khỏi thạch đình. Bỗng thấy trước mặt một bóng thấp thoáng, ông già lùn mặt đỏ
đã chặn ngay trước mặt, cười hì hì:
- Con gái
tính tình không nên nóng nảy như vậy, sau này về làm dâu nhà người ta, đâu có
thể giữ mãi cái tính trẻ con như thế? Được rồi, để ta nói cho cô nghe, chúng
tôi là ba người sư huynh đệ, mấy ngày qua đường xá xa xôi từ Tây Vực đến Trung
Nguyên …
Quách Tương dẩu môi đáp:
- Ông không
cần nói tôi cũng biết. Đất Thần Châu Trung Nguyên chúng tôi, không ai biết ba
người các ông bao giờ.
Ba ông già nhìn nhau, ông già mặt đỏ
hỏi:
- Xin hỏi cô
nương, tôn sư là ai thế?
Quách Tương khi ở chùa Thiếu Lâm
không chịu nói tên cha mẹ của mình, lúc này trong bụng tức lắm, nên nói:
- Cha tôi họ
Quách, đơn danh một chữ Tĩnh. Mẹ tôi họ Hoàng, đơn danh một chữ Dung. Tôi không
có sư phụ, chỉ nhờ cha mẹ dạy qua loa thôi.
Ba ông già lại nhìn nhau. Ông già
mặt xanh lẩm bẩm: “Quách Tĩnh? Hoàng Dung? Họ thuộc môn phái nào thế nhỉ? Là đệ
tử của ai?”
Quách Tương lúc này trong lòng bực
không sao chịu nổi, nghĩ thầm tên tuổi cha mẹ mình ai ai cũng biết, đừng nói
chi người trong võ lâm, mà đến dân thường, ai không biết Quách đại hiệp nghĩa
thủ Tương Dương? Thế nhưng nhìn thần sắc của ba ông già này, không phải là giả
vờ không biết. Nàng nghĩ một hồi, chợt vỡ lẽ: “Ba gã Côn Lôn Tam Thánh từ Tây
vực xa xôi, trước nay chưa hề vào Trung Thổ. Tuy họ võ công cao như thế nhưng
cha mẹ ta cũng chưa đề cập đến tên tuổi họ bao giờ, cho nên không biết được tên
hai ong bà thật cũng không có gì lạ. Ắt là họ ở sâu trong núi Côn Lôn, chăm chỉ
tập luyện võ công, xưa nay không hề nghe đến chuyện bên ngoài." Nghĩ như
vậy, trong lòng mới thấy nhẹ nhõm, nộ khí tiêu tan. Nàng vốn dĩ không phải là
người tính tình nhỏ nhặt, chấp nhất, nên nói:
- Tôi họ
Quách, tên Tương, là chữ Tương trong tên thành Tương Dương đó. Hay lắm, tôi đã
cho các ông biết tên tôi rồi. Xin hỏi ba vị lão tiên sinh tôn tính đại đanh là
gì?
Ông già mặt đỏ cười hì hì nói:
- Phải đó,
cô bé con ngoan lắm, dạy một lần là nhớ ngay, thế mới là đạo lý tôn trọng bậc
trưởng bối.
Nói rồi chỉ ông già mặt vàng:
- Vị này là
đại sư ca của anh em ta, họ Phan, tên là Thiên Canh. Ta là nhị sư huynh, họ
Phương, tên gọi Phương Thiên Lao.
Tay chỉ ông già mặt xanh nói:
- Còn đây
tam sư đệ, họ Vệ, tên là Thiên Vọng. Bọn ta có ba anh em, trong tên ai cũng có
chữ Thiên cả.
Quách Tương à một tiếng, nhẩm lại
một lượt, rồi hỏi:
- Các ông
chẳng hay đã lên đến chùa Thiếu Lâm chưa? Các ông đã tỉ thí võ nghệ với các hòa
thượng trên chùa chưa? Hai bên, bên nào võ công cao cường hơn?
Ông già mặt xanh Vệ Thiên Vọng hừ
một tiếng, gay gắt hỏi lại:
- Sao cái gì
ngươi cũng biết thế? Bọn ta muốn tỉ thí võ nghệ với các hòa thượng chùa Thiếu
Lâm, thiên hạ ít ai biết, làm sao ngươi lại biết? Nói mau, nói mau!
Nói rồi ông ta sấn tới trước mặt
Quách Tương, tay phải nắm chặt, hung hăng trừng mắt nhìn cô gái. Quách Tương
nghĩ thầm:
- Đời nào ta
để cho y uy hiếp? Có nói cho ngươi hay cũng không có gì quan trọng, nhưng ngươi
càng dữ dằn, ta càng không thèm nói.
Cô trợn mắt nhìn y một cái, thản
nhiên nói:
- Tên của
ông nghe không hay, sao không đổi thành “Thiên Ác” có hơn không?
Vệ Thiên Vọng giận dữ:
- Cái gì?
Quách Tương đáp:
- Hung thần
ác sát như ông trên đời ít có, đã giựt mất kiếm của tôi, lại còn hầm hầm, có
phải là sao Thiên Ác trên trời xuống đây hay không?
Vệ Thiên Vọng gầm gừ trong họng mấy
tiếng như con thú, ngực bỗng phồng lên thật lớn, tóc và lông mày như muốn dựng
cả lên. Ông già mặt đỏ Phương Thiên Lao vội kêu lên:
- Tam đệ,
không được nổi nóng.
Lập tức nắm vai Quách Tương lôi về
phía sau vài thước, lấy thân mình chắn giữa hai người. Quách Tương thấy Vệ
Thiên Vọng như thế, nếu y quả thực ra tay ắt nàng không sao chống đỡ được,
trong lòng không khỏi hơi khiếp sợ. Vệ Thiên Vọng tay phải rút kiếm ra khỏi
bao, tay trái hai ngón tay kẹp lấy mũi kiếm, vận sức vào đốt ngón tay, nghe
cách một tiếng, đầu kiếm đã gãy làm hai, rồi bỏ cả hai mảnh trở lại bao, nói:
- Ai thèm
lấy cái thứ kiếm vô dụng của ngươi làm gì!
Quách Tương thấy kình lực ngón tay
của y lợi hại như thế không khỏi hãi sợ. Vệ Thiên Vọng thấy nàng biến sắc, đắc ý
ngửng đầu cười ha hả. Tiếng cười của y ù cả tai, rung động đến nỗi ngói trên
mái đình cũng kêu lách cách.
Trong khi tiếng vang chưa dứt, bỗng
dưng mái đình thủng một mảng lớn, một vật gì đó rơi bịch xuống đất. Mọi người
ai nấy giật mình, đến Vệ Thiên Vọng cũng không tưởng nổi y nội lực sung túc đến
mức tiếng cười có thể làm chấn động mái ngói. Thực ra tiếng cười của y không
hàm ý vui vẻ mà chỉ là vận kình kêu lên “ha ha” vài tiếng, vậy mà làm thủng
được mái ngói, khiến y vừa mừng vừa sợ, không ngờ gần đây nội lực của mình lại
tiến bộ đến thế. Thế nhưng nhìn lại cái vật vừa rơi xuống lại càng sợ hơn, chỉ
thấy đó là một hán tử trung niên mặc áo trắng, hai tay ôm một cây dao cầm, lăn
quay dưới đất, mắt vẫn nhắm nghiền ngủ say sưa.
Quách Tương vui mừng nói:
- Ồ, ông
cũng ở đây sao?
Hóa ra người đàn ông này chính là
người ngồi đánh đàn nàng gặp mấy hôm trước trên núi. Người đó nghe tiếng Quách
Tương, vội nhỏm dậy, nói:
- Cô nương,
tôi đang đi tìm cô, không ngờ lại gặp nhau ở đây.
Quách Tương hỏi:
- Ông đi
kiếm tôi có chuyện gì thế?
Người đó đáp:
- Tôi quên
không thỉnh giáo tôn tính đại danh của cô nương.
Quách Tương nói:
- Cái gì mà
tôn tính đại danh? Những lời màu mè giả dối đó tôi không thích chút nào.
Người nọ khựng lại, cười đáp:
- Đúng lắm,
đúng lắm. Càng để ý đến hư văn, loại người đó càng không có chân tài thực học.
Hạng đó đi lòe mấy người nhà quê, chứ làm được chuyện gì.
Y vừa nói vừa liếc nhìn Vệ Thiên
Vọng, cười khẩy mấy tiếng. Quách Tương mừng lắm, không ngờ người này biết hết mọi
chuyện, cố ý giúp đỡ mình.
Vệ Thiên Vọng thấy người nọ liếc
mình, mặt y đã xanh lại càng xanh thêm, lạnh lùng hỏi:
- Tôn giá là
ai?
Người nọ không thèm để ý tới y, nói
với Quách Tương:
- Cô nương,
tên cô là gì nhỉ?
Quách Tương nói:
- Tôi họ
Quách, đơn danh Tương.
Người nọ vỗ tay:
- A, thật
đúng là có mắt mà không thấy núi Thái Sơn, hóa ra đây là Quách đại cô nương,
người mà bốn bể ai cũng nghe danh. Lệnh tôn là Quách Tĩnh Quách đại hiệp, lệnh
đường Hoàng Dung Hoàng nữ hiệp, trừ bọn vô tri vô thức, không biết trời trăng
gì mới không biết đến, chứ trên giang hồ có ai không hay, có ai không biết? Hai
vị đó văn võ song toàn, đao thương kiếm kích, quyền chưởng khí công, cầm kỳ thư
họa, thi từ ca phú, xưa nay không môn gì không hơn người, ai mà bì kịp. Ha ha,
chỉ có cái bọn thong manh, mới không nghe đến tiếng vang vọng của hai ông bà.
Quách Tương trong lòng thật vui,
nghĩ thầm: “Thì ra ngươi ẩn náu ở trên nóc đình, đã nghe thấy những gì ta nói
với ba người này rồi. Xem ra chính ngươi cũng chẳng biết gì về cha mẹ ta. Ta
thứ hai, vậy mà gọi là đại cô nương, lại bảo cha ta cũng thông cầm kỳ thư họa,
thi từ ca phú, thật đáng nực cười”.
Nghĩ như thế nên nàng cười hỏi lại:
- Thế còn
tên ông là gì?
Người kia đáp:
- Tôi họ Hà,
tên là Túc Đạo.
Quách Tương cười:
- Hà Túc
Đạo, Hà Túc Đạo ư? Cái tên ông sao khiêm tốn quá vậy.[7]
Hà Túc Đạo nói:
- So với cái
bọn thiên gì, địa gì khoác lác không biết xấu hổ, cái thứ nhãi nhép cuồng vọng
tự tôn, thùng rỗng kêu to chỉ tổ làm người ta buồn mửa.
Hà Túc Đạo liên tiếp mỉa mai châm
chọc bọn ba anh em Vệ Thiên Vọng. Ba người thấy y ép sập nóc đình rơi xuống,
hẳn không tầm thường, lúc đầu họ còn cố nhịn, để xem bạch y quái khách này là
hạng người nào. Thế nhưng càng nghe lời lẽ y càng chua cay, Vệ Thiên Vọng thấy
không còn chịu nổi, vung tay nhắm ngay má trái của y đánh ra một chưởng.
Hà Túc Đạo hơi cúi đầu, luồn dưới
cánh tay y mà lách qua. Vệ Thiên Vọng chỉ thấy cổ tay trái hơi tê, thanh kiếm
trong tay y đã bị đoạt mất. Lúc Vệ Thiên Vọng đoạt kiếm của Quách Tương, thân
pháp thật là nhanh, khiến người ta không sao nhìn rõ, nhưng lúc này Hà Túc Đạo
lách qua nhẹ nhàng thuận tay lấy lại thanh đoản kiếm, từ thân pháp đến cử động,
không có điểm nào khác thường.
Vệ Thiên Vọng kinh hãi, tiến lên một
bước, mấy ngón tay như cái móc, chộp luôn vào vai y. Hà Túc Đạo lại nghiêng
người né tránh, trảo đó lướt qua thân y. Phan Thiên Canh và Phương Thiên Lao
đột nhiên nhảy lùi lại ra ngoài đình. Vệ Thiên Vọng tả quyền hữu chưởng đánh
ra, tiếng gió kêu vù vù, chỉ giây lát đã đánh ra bảy tám chiêu liền. Hà Túc Đạo
né trái lách phải, khiến đến vạt áo cũng không chạm đến. Tay y cầm thanh đoản
kiếm, đối với quyền chiêu gió táp mưa sa của đối phương không hề đỡ gạt, chỉ
nhẹ nhàng nghiêng người đã làm cho Vệ Thiên Vọng đánh hụt ra ngoài.
Đối với lứa tuổi của Quách Tương,
tuy võ thuật nàng không tinh thâm nhưng trong những người quen biết không hiếm
cao thủ vào hạng nhất, kiến thức lại hơn người, thấy Hà Túc Đạo cử động trông
nhẹ nhàng nhưng thân pháp hết sức xảo diệu, né tránh những chiêu thức cực kỳ
cương mãnh của địch, võ công thân pháp thành riêng một nhà, so với các môn phái
ở Trung Thổ không giống ai, càng xem càng thấy kỳ lạ.
Vệ Thiên Vọng liên tiếp đánh ra hơn
hai chục chiêu vẫn không ép được đối phương xuất thủ, hự một tiếng nhỏ, quyền
pháp bất ngờ đổi hẳn, xuất chiêu chậm chạp, nhưng quyền lực nặng nề. Quách
Tương đứng ở bên trong đình, cảm thấy quyền phong càng lúc càng nặng đẩy nàng
từng bước lùi ra bên ngoài.
Lúc này Hà Túc Đạo không còn có thể
chỉ né tránh mà không trả đòn, y cài đoản kiếm vào dây lưng, hai chân đứng vững
lại, quát lên:
- Ngươi biết
ngạnh công, tưởng ta không biết sao?
Đợi Vệ Thiên Vọng hai chưởng đánh
tới, tay trái phản kích lại một chưởng, lấy ngạnh công chống với ngạnh công,
nghe bình một tiếng, Vệ Thiên Vọng thân hình hơi lảo đảo, lùi lại hai bước. Hà
Túc Đạo đứng nguyên một chỗ không động đậy.
Vệ Thiên Vọng vẫn tự cho là mình
ngoại môn ngạnh công trên đời ít ai bì kịp, nào ngờ đối phương lấy cứng chống
cứng không hề mượn sức hay trổ tài khéo léo, đẩy mình lùi lại. Y trong lòng
không phục, hít một hơi, quát lên một tiếng, hai chưởng lại đánh ra. Hà Túc Đạo
cũng quát lên một tiếng, đánh lại một chưởng. Chỉ nghe tiếng ầm ầm liên tiếp,
khiến cho lỗ hổng trên mái đình đất đá rơi xuống rào rào.
Vệ Thiên Vọng lùi lại bốn bước, sau
cùng cũng đứng lại được. Y đỡ xong hai chưởng này, đầu tóc rồi bù, hai mắt lồi
ra, hình dáng trông thật dễ sợ. Hai tay y ôm vào đan điền, thở hù hù vận khí
mấy lần, ngực lõm vào, bụng lại phình ra như cái trống, toàn thân các khớp
xương kêu lốp cốp, từng bước từng bước chậm chậm bước về phía Hà Túc Đạo.
Hà Túc Đạo thấy tình thế của y như
vậy, không dám coi thường, điều vận chân khí, đứng chờ thế của địch.
Vệ Thiên Vọng đi đến còn cách đối
phương chừng bốn năm thước, đã tưởng phát chiêu, nào ngờ không ngừng bước mà
vẫn tiếp tục tiến thêm hai bước nữa, đến đứng đối diện tưởng như hơi thở của
nhau có thể cảm thấy được, lúc ấy hai chưởng mới tung ra, một chưởng đánh vào
mặt, một chưởng lại đánh vào bụng dưới. Lần này y phân ra hai chưởng, cốt để
đối thủ phải phân lực ra làm hai. Chiêu thế cũng như chưởng lực đều thật là
hùng mạnh.
Hà Túc Đạo cũng lập tức hai chưởng
đưa ra, hai tay chéo lại, tay trái y đỡ lấy tay trái địch thủ, tay phải y đỡ
lấy tay phải của địch, nhưng chưởng lực lại phân thành một cương, một nhu. Vệ
Thiên Vọng chỉ thấy chưởng của y đánh vào bụng dưới địch như đánh vào chỗ
không, còn tay phải đánh vào mặt thì như đụng phải tường đồng vách sắt, biết là
không ổn, chỉ thấy mình bị một lực to lớn đánh vào, khiến cả thân hình y bị đẩy
văng ra khỏi thạch đình.
Kỳ này hai người lấy cứng chọi cứng,
dùng lực chống lực, ai yếu hơn sẽ bị thương, không thể nào lấy gì ngoắt ngoéo.
Dù cho Vệ Thiên Vọng có gượng đứng được, hoặc một chiêu đã ngã, thì chưởng lực
của chính y phản kích trở lại, lại thêm chưởng lực của Hà Túc Đạo, ắt y thể nào
cũng phải hộc máu tươi. Phan Thiên Canh và Phương Thiên Lao cùng kêu lên:
- Ra tay!
Hai người đồng thời nhảy tới, cùng
chia nhau mỗi người nắm một cánh tay của Vệ Thiên Vọng nhắc lên, có thế mới
tiêu trừ được chưởng lực cương mãnh của Hà Túc Đạo. Vệ Thiên Vọng tuy chưa bị
thương, nhưng ruột gan đã chấn động, xương cốt toàn thân tưởng như nát nhừ, thở
không ra hơi, không đứng nổi. Ông già lùn mặt đỏ Phương Thiên Lao thấy sư đệ bị
một trận đau như thế, trong bụng vừa giận vừa sợ, nhưng mặt ngoài vẫn cười hì
hì, nói:
- Các hạ
chưởng lực mạnh như thế, quả thực trên đời ít thấy, bội phục bội phục.
Quách Tương nghĩ thầm: “Nói đến
chưởng lực cương mãnh hùng hậu, ai bằng được Hàng Long Thập Bát Chưởng của cha
ta? Bọn Côn Lôn Tam Thánh các ngươi trốn lánh ở chốn hoang sơn, ếch ngồi đáy
giếng, tưởng là mình giỏi, rồi sẽ có ngày biết đến võ công Trung Thổ”. Nàng
nghĩ đến đây, trong lòng hơi se lại, vì lúc nàng muốn cho bọn Phương Thiên Lao
biết đến võ công Trung Thổ, không phải là biết đến phụ thân mà chính là Dương
Quá.
Chỉ nghe Phương Thiên Lao nói tiếp:
- Tiểu lão
nhi bất tài, xin ra lãnh giáo kiếm pháp của các hạ.
Hà Túc Đạo nói:
- Phương
huynh đối xử với Quách cô nương thật nể nang, tại hạ không trách gì cả, chúng
ta tỉ thí làm gì.
Quách Tương ngạc nhiên: “Ngươi cho
gã họ Vệ kia một phen khổ sở, nguyên lai chỉ vì y đối với ta không nể nang ư?”
Phương Thiên Lao đến bên con ngựa y
cưỡi, từ bao vải lấy ra một thanh trường kiếm, nghe một tiếng soẹt, đã rút ra
khỏi vỏ, giơ ngón tay búng vào thân kiếm một cái, tiếng u u nổi lên một hồi lâu
không dứt. Khi kiếm đã trong tay, nụ cười trên môi lập tức biến mất, tay trái
bắt kiếm quyết đưa ra trước mặt, ngón tay đưa lên, tay phải cầm kiếm chỉ lên
trời không động đậy, chính là chiêu “Tiên Nhân Chỉ Lộ”.
Hà Túc Đạo nói:
- Nếu quả
Phương huynh muốn động thủ, thì tôi xin dùng đoản kiếm của Quách cô nương thử
một vài chiêu.
Y nói rồi rút ra nửa thanh kiếm gãy.
Thanh kiếm đó vốn đã dài không quá hai thước, sau khi Vệ Thiên Vọng dùng ngón
tay bẻ gãy rồi, lưỡi kiếm chỉ còn bảy tám tấc. Đầu kiếm lại thẳng không nhọn,
đến như con dao găm cũng không bằng. Tay trái y cầm bao kiếm, tay phải cầm
thanh kiếm gãy nhảy vào tấn công.
Lần nay y ra tay cực kỳ nhanh nhẹn,
trước mắt Phương Thiên Lao chỉ thấy một vệt trắng thấp thoáng, Hà Túc Đạo đã
liên tiếp công kích ba chiêu, tuy rằng thanh kiếm gãy quá ngắn không làm y bị
thương, nhưng Phương Thiên Lao trong bụng cũng hãi sợ, nghĩ thầm: “Ba chiêu này
nhanh thật, quả không dễ gì né tránh, kiếm pháp này là kiếm pháp gì đây? Nếu
trong tay y mà là trường kiếm thì có lẽ máu mình đã đổ ra tại chỗ rồi.”
Hà Túc Đạo tấn công ba chiêu xong,
lui ra một bên, đứng yên bất động. Phương Thiên Lao khai triển kiếm pháp, nửa
thủ nửa công, hung hăng xông tới. Hà Túc Đạo né qua một bên, nhưng không trả
đòn, lại bất ngờ tấn công ba chiêu thật nhanh, ép Phương Thiên Lao phải tay
chân lúng túng, rồi lại nhảy ra ngoài đứng chờ. Thanh kiếm trong tay Phương
Thiên Lao lại tung ra tấn công, chỉ thấy ánh sáng trắng nhấp nháy, cực kỳ nhanh
nhẹn.
Quách Tương nghĩ thầm: “Lão già này
chiêu số thật là cương mãnh, độc địa, so với chưởng pháp của lão họ Vệ cũng
cùng một lối, có điều có thêm ba phần linh động, lại có vẻ lợi hại hơn …” Vừa
nghĩ tới đây, chợt nghe Hà Túc Đạo quát lên: “Cẩn thận nhé”. Chữ nhé vừa ra
khỏi miệng, bao kiếm bên tay trái giơ lên, nhanh như điện chớp, nghe xẹt một
tiếng nhỏ, bao kiếm trong tay đã chụp lấy mũi kiếm của Phương Thiên Lao, kiếm
bên tay phải nhanh nhẹn chĩa ngay vào yết hầu địch thủ.
Trường kiếm của Phương Thiên Lao
không còn tự do, không cách gì có thể thu kiếm về để gạt, mắt thấy kiếm đâm vào
cổ họng mình, chỉ còn cách bỏ thanh kiếm, lăn ngay xuống đất, mới tránh được
chiêu này. Y chưa kịp đứng dậy, một bóng người thấp thoáng, Phan Thiên Canh đã
vọt mình nhảy tới, chộp lấy chuôi thanh trường kiếm, xoay mình một cái, rút ra
khỏi bao. Cả Hà Túc Đạo lẫn Quách Tương đều lên tiếng khen ngợi:
- Hảo thân
pháp!
Ông già mặt trông như người bệnh ấy
trước sau không thốt ra một lời, võ công hóa ra cao nhất trong ba người. Hà Túc
Đạo nói:
- Công phu
của các hạ cao cường, tại hạ thật bội phục.
Nói rồi quay đầu lại nói với Quách
Tương:
- Quách cô
nương, từ khi được nghe nhã tấu của cô nương hôm trước, tôi đã sáng tác một bản
đàn, mong được cô nương bình phẩm.
Quách Tương nói:
- Bản đàn
nào thế?
Hà Túc Đạo ngồi xuống xếp bằng, lấy
cây dao cầm đặt lên lòng, lên dây thử vận, rồi bắt đầu gẩy đàn.
Phan Thiên Canh nói:
- Các hạ
liên tiếp đánh bại hai người sư đệ của tôi, họ Phan này muốn được thỉnh giáo.
Hà Túc Đạo xua tay:
- Chuyện tỉ
thí võ công đã qua rồi, không còn hứng thú gì nữa. Đây là một bản đàn mới, ta
đang muốn gẩy cho Quách cô nương nghe. Ba vị nếu như muốn nghe, xin mời ngồi
xuống, nếu như không hiểu, xin cứ tự tiện.
Tay trái ấn phím, tay phải bắt đầu
đánh đàn. Quách Tương chỉ mới nghe vài nốt, bất giác vừa mừng vừa sợ. Hóa ra bản
đàn này một phần là từ “Khảo Bàn” là khúc nàng đã tấu qua, nhưng một phần khác
lại từ trong thơ “Kiêm Gia”, hai bản không cùng một điệu, nhưng y đã hòa lại
với nhau, một ứng một đáp, nghe ra thật là kỳ diệu. Tuy nhiên khi nghe cầm vận
tới đoạn “khảo bàn tại giản, thạc nhân chi khoan. Kiêm gia thương thương,
bạch lộ vi sương, sở vị y nhân, tại thiên nhất phương … thạc nhân chi khoan,
thạc nhân chi khoan … tố hồi tòng chi, đạo trở thả trường, tố du tòng chi, uyển
tại thủy trung ương … độc tẩm ngụ ngôn, vĩnh thỉ vật huyên, vĩnh thỉ vật huyên
…” Quách Tương trong lòng thấy hơi chạnh lòng: “Trong tiếng đàn của y có
nói đến y nhân, chẳng lẽ nhắc đến ta ư? Sao điệu đàn có vẻ ý tứ triền
miên đến thế, nghe đầy những nhớ thương cảm mến?” Nghĩ đến đây, nàng không khỏi
ửng hồng đôi má. Có điều điệu đàn đó biến chuyển thực là khéo léo, nguyên vận
hai bài “Khảo Bàn” và “Kiêm Gia” không lạc nhau chút nào, hai bên nhịp nhàng
đối đáp, song vẫn giữ được tất cả những hoa mỹ của cả hai. Trong đời nàng chưa
bao giờ được nghe một khúc nhạc như thế cả.
Thế nhưng bọn Phan Thiên Canh ba
người chẳng ai hiểu gì. Họ không biết rằng Hà Túc Đạo là người hơi điên khùng,
có chút mê mẩn của một cuồng sĩ, vừa làm được một bản đàn, nhất định phải kiếm
Quách Tương để gẩy cho nghe bằng được, huống chi khúc đàn này cũng vì nàng mà
sáng tác, nên lúc ấy mọi việc đều gác sang một bên. Thế nhưng ba ông già thấy y
ngưng thần đánh đàn, chẳng thèm để ý chi đến mình, quả thực hết sức khinh
người, làm sao họ có thể nhịn nổi? Phan Thiên Canh vung thanh trường kiếm, điểm
ngay vào vai bên trái Hà Túc Đạo, hét lớn:
- Mau đứng
lên, ta với ngươi hai người so tài nào!
Hà Túc Đạo toàn thể tâm trí đang để
vào tiếng đàn, tưởng mình đang là một thư sinh ngao du nơi khe núi, ngắm một
thiếu nữ ôn nhu đứng trên một hòn đảo nhỏ xa xa, lòng không ngại núi non cách
trở, đang cố tìm cách qua gặp nàng …
Bỗng dưng thấy vai trái nhói một
cái, y liền tỉnh mộng, quay đầu nhìn lại, thấy trường kiếm trong tay Phan Thiên
Canh đã chỉ vào đầu vai mình, đâm nhẹ vào da, nếu không đỡ gạt, e rằng đối
phương sẽ tiện đà đâm tới khiến cho bị thương. Thế nhưng bản đàn chưa tấu xong,
tục nhân lại ở bên cạnh quấy nhiễu, thực là phá đám. Y lập tức cầm thanh kiếm
gãy, keng một tiếng, gạt thanh trường kiếm của Phan Thiên Canh ra, tay phải vẫn
tiếp tục gảy đàn.
Lúc này Hà Túc Đạo mới giở tuyệt kỹ
bình sinh, tay phải đàn cầm, tay trái sử kiếm. Y không sao nhấn phím được nên
nhắm năm dây đàn dùng sức thổi một cái, dây đàn lập tức lõm xuống, tay phải
tiếp tục gảy như thường, tiếng đàn cao thấp trầm bổng, vẫn uyển chuyển như ý.
Phan Thiên Canh cấp tốc công kích
mấy chiêu, Hà Túc Đạo thuận tay gạt ra, hai mắt vẫn chăm chú nhìn dây đàn, chỉ
e hơi thổi ra không trúng tiết, làm loạn tiếng đàn. Phan Thiên Canh càng thêm
giận dữ, kiếm chiêu càng công càng nhanh, nhưng bất luận kiếm của y từ phương
nào đâm tới, đều bị Hà Túc Đạo nhẹ nhàng gạt qua một bên.
Quách Tương nghe tiếng đàn, trong
lòng nổi nhạc hứng, không để ý gì đến những đường kiếm đánh tới của Phan Thiên
Canh, thế nhưng hai thanh kiếm chạm nhau làm cho cầm thanh bị loạn. Hai tay
nàng đánh nhịp theo tiếng đàn, nhíu mày nhìn Phan Thiên Canh nói:
- Ông ra
chiêu lúc nhanh lúc chậm không hợp với tiếng đàn, bộ ông không biết gì về âm
nhạc ư? Hừ, ông phải nghe theo tiếng đàn mà xuất kiếm, có theo nhịp thì nghe
mới được.
Phan Thiên Canh đời nào để ý đến cô,
chỉ thấy trước mặt kẻ địch ngồi xếp bằng trên đất, tay chỉ cầm một thanh kiếm
gãy, mắt chăm chú nhìn dây đàn, vậy mà mình không sao chạm được vào y, lại càng
nóng ruột. Đột nhiên y đổi kiếm pháp, công kích càng nhanh hơn, hai món binh
khí chạm nhau leng keng như tiếng mưa rào. Âm thanh cấp bách đó so với tiếng
đàn ôn nhã triền miên quả thực không hài hòa chút nào.
Hà Túc Đạo nhương đôi lông mày,
truyền kình lực vào thanh đoản kiếm, nghe cách một tiếng, thanh kiếm trong tay
Phan Thiên Canh lập tức gãy ra làm đôi. Thế nhưng cũng lúc đó, dây thứ năm
trong bảy dây đàn cũng đứt theo. Phan Thiên Canh mặt xám như tro, không nói một
lời, chuyển thân chạy ra khỏi đình. Ba người nhảy lên lưng ngựa, chạy vọt lên
hướng triền núi.
Quách Tương thật lạ lùng, nói:
- Hừ, ba
người này đánh đã thua rồi, tại sao còn chạy lên chùa Thiếu Lâm? Bộ họ muốn
chết hay sao chứ?
Nàng quay đầu lại, thấy Hà Túc Đạo
mặt buồn thiu, tay vuốt ve dây đàn, tưởng như không nói lên được nỗi đau khổ
của mình. Quách Tương nghĩ thầm: “Một sợi dây đàn, có đáng gì đâu?”.Lập tức
tiếp lấy cây dao cầm cởi đoạn dây đàn bị đứt mở dây đàn ra căng lại sợi dây
mới.
Hà Túc Đạo lắc đầu thở dài, nói:
Uổng phí bao năm tu tập, cuối cùng
rồi lòng vẫn chưa tĩnh được. Tuy tay trái tôi đưa kình lực ra làm gãy được kiếm
của y, nhưng tay phải cũng lại làm đứt dây đàn.
Bấy giờ Quách Tương mới rõ, nguyên
là y thất vọng vì võ công của mình luyện chưa thuần thục, nên cười đáp:
- Việc ông có
thể tay trái dũng mãnh công địch, tay phải lại thư thả chậm rãi gẩy đàn, là
phép phân tâm nhị dụng, trên cõi đời này hiện nay chỉ có ba người làm được
thôi. Ông luyện chưa đến mức đó, cũng không có gì phải bực mình.
Hà Túc Đạo hỏi lại:
- Ba người
đó là ai?
Quách Tương đáp:
- Vị thứ
nhất là Lão Ngoan Đồng Chu Bá Thông, người thứ hai là cha tôi, còn người thứ ba
là Dương phu nhân Tiểu Long Nữ. Trừ ba người ấy ra, dù cho là ông ngoại tôi Đào
hoa đảo chủ, hay mẹ tôi, hoặc Thần Điêu đại hiệp Dương Quá, là những người võ
công rất cao, nhưng cũng không làm được.
Hà Túc Đạo nói:
- Thế gian
có những kỳ nhân như thế, bao giờ có dịp mong cô đưa tôi đến gặp họ.
Quách Tương buồn bã nói:
- Muốn gặp
cha tôi thì không khó, còn hai vị kia, không biết đi đâu để kiếm họ được.
Nàng thấy Hà Túc Đạo ngơ ngẩn xuất
thần, lại nghĩ đến chuyện đứt dây đàn, nên an ủi y:
- Ông chỉ
giơ tay đã đánh bại được Côn Lôn Tam Thánh, cũng đủ hãnh diện với đương thế
rồi, hà tất vì chuyện nhỏ mọn là đứt dây đàn mà rầu rĩ không vui?
Hà Túc Đạo giật mình kinh hãi, hỏi
lại:
- Côn Lôn
Tam Thánh ư? Cô nói gì? Sao cô lại biết?
Quách Tương cười đáp:
- Ba lão già
đó từ Tây Vực đến, ắt là Côn Lôn Tam Thánh đó. Bọn họ võ công quả nhiên có chỗ
độc đáo, chỉ có điều khiêu chiến với chùa Thiếu Lâm, e rằng không tự lượng sức
mình …
Nàng thấy sự kinh hoàng của Hà Túc
Đạo mỗi lúc một nhiều, nên không dám nói tiếp nữa, hỏi lại:
- Có gì kỳ
quái?
Hà Túc Đạo lẩm bẩm:
- Côn Lôn
Tam Thánh, Côn Lôn Tam Thánh Hà Túc Đạo chính là tôi đây.
Quách Tương giật mình kinh hãi, nói:
- Ông là Côn
Lôn Tam Thánh ư? Vậy còn hai người kia đâu?
Hà Túc Đạo nói:
- Côn Lôn
Tam Thánh chỉ có một người, xưa nay không phải ba người bao giờ. Tôi ở Tây Vực
cũng có được một chút danh nho nhỏ, bạn bè ở đó nói tôi có ba tuyệt kỹ, cầm kỳ
kiếm, có thể nói là cầm thánh, kỳ thánh, kiếm thánh. Nhân vì tôi sinh trưởng
trong núi Côn Lôn, nên gán cho tôi một cái ngoại hiệu, gọi là Côn Lôn Tam
Thánh. Thế nhưng tôi nghĩ cái chữ “thánh” đó, đâu phải dễ dàng gì mà xưng như
thế? Thế nhưng người khác đã dát vàng lên trên mặt mình rồi, không thể từ chối
được. Thành thử, tôi phải đổi tên, gọi mình là “Túc Đạo”, nối liền với nhau,
thành là Côn Lôn Tam Thánh Hà Túc Đạo[8] để cho người khác nghe được không cho là tôi cuồng vọng tự
đại.
Quách Tương vỗ tay cười:
- Hóa ra là
như thế. Tôi vẫn tưởng là Côn Lôn Tam Thánh phải là ba người. Thế ba ông già đó
là ai?
Hà Túc Đạo nói:
- Bọn họ ư?
Họ thuộc phái Thiếu Lâm.
Quách Tương lấy làm lạ, nói:
- Nguyên lai
ba người này thuộc phái Thiếu Lâm. Ừ, võ công của họ quả đúng là cương mãnh.
Không sai, ông già mặt đỏ sử dụng chính là Đạt Ma kiếm pháp. Đúng rồi, ông già
bệnh hoạn mặt vàng lúc sau công kích thật gấp, chẳng phải Vi Đà Phục Ma kiếm
hay sao? Chỉ vì họ thêm thắt biến hóa nhiều, nhất thời tôi không nhận ra được.
Nhưng sao họ lại từ Tây Vực đến đây?
Hà Túc Đạo nói:
- Chuyện này
nói ra cũng có nguyên nhân. Mùa xuân năm ngoái, tôi ở tại đỉnh Kinh Thần Phong
gẩy đàn, bỗng đâu nghe ngoài lều tranh có tiếng đấm đá, vội ra xem, thấy hai
người đang vật nhau, cả hai đều đã trọng thương, nhưng vẫn tận lực chiến đấu.
Tôi quát họ bắt ngừng tay, nhưng không ai chịu yên, tôi phải đến can hai người
ra. Một trong hai người chỉ trợn ngược mắt lên rồi chết, người kia còn thoi
thóp. Tôi đưa y vào trong lều, cho y uống một viên Thiếu Dương đơn, cứu chữa
nửa ngày, nhưng vì bị thương quá nặng, linh đơn không cứu mạng nổi. Khi y sắp
chết, nói tên là Doãn Khắc Tây …
Quách Tương A lên một tiếng, nói:
- Phải chăng
người đánh nhau với y là Tiêu Tương Tử? Người đó thân hình cao gầy, mặt trông
như xác chết, phải không?
Hà Túc Đạo lạ lùng:
- Đúng vậy,
sao cô cái gì cũng biết?
Quách Tương đáp:
- Tôi đã gặp
họ rồi, không ngờ hai tên thân thiết như thế, cuối cùng lại đánh nhau đến chết.
Hà Túc Đạo nói:
- Doãn Khắc
Tây nói rằng y một đời làm nhiều điều tàn ác, đến khi sắp chết, hối hận cũng đã
muộn. Y nói y và Tiêu Tương Tử hai người vào chùa Thiếu Lâm ăn cắp một bộ kinh
thư, nhưng người nọ e dè người kia, không ai dám để người kia coi trước, sợ nếu
đối phương võ công cao hơn, sẽ ra tay trừ khử mình, chiếm lấy bộ kinh. Hai
người ăn cùng mâm, ngủ cùng giường, một bước không rời nhau. Thế nhưng ăn thì
sợ người kia hạ độc, ngủ thì sợ người kia ám toán, lúc nào cũng nơm nớp không
an, lại sợ hòa thượng chùa Thiếu Lâm đuổi theo, nên phải chạy đến Tây Vực. Đến
khi họ đến được Kinh Thần Phong, hai người đã gân cốt rã rời, nhưng không ai
chịu ai, cuối cùng ra tay đánh nhau. Doãn Khắc Tây nói là Tiêu Tương Tử vốn võ
công cao hơn y, lại ra tay đánh y trước một chưởng, nhưng kết quả y vẫn chiếm
thượng phong. Sau y mới nghĩ ra rằng, Tiêu Tương Tử khi ở trên núi Hoa Sơn đã
bị trọng thương, nguyên khí vẫn chưa hồi phục. Nói trắng ra, nếu hai người
không e ngại lẫn nhau, chắc cũng không thể nào lên tới núi Côn Lôn được.
Quách Tương nghe câu chuyện, nghĩ
đến hai người đường đi lúc nào cũng lo ngay ngáy, đến chết cũng vẫn còn chưa
yên bụng, không khỏi thương cảm, nên than:
- Chỉ vì một
bộ kinh thư, đến nỗi sinh ra cớ sự.
Hà Túc Đạo nói:
- Tên Doãn
Khắc Tây nói xong câu chuyện, hơi đã đứt đoạn, sau cùng cầu tôi đến chùa Thiếu
Lâm, nói lại với một vị tên hòa thượng tên là Giác Viễn, rằng kinh thư ở trong
dầu chi đó. Tôi nghe thấy kỳ quái, cái gì mà lại kinh thư ở trong dầu? Định sẽ
hỏi lại cho kỹ, nhưng nào ngờ y không còn chịu nổi, đã hôn mê bất tỉnh rồi. Tôi
đợi y tỉnh lại sẽ hỏi cho ra lẽ, nào ngờ y thiếp đi rồi không tỉnh nữa. Tôi
nghĩ hay là bộ kinh đó bao trong tấm vải tẩm dầu chăng? Thế nhưng tra xét khắp
người hai tên này, không thấy gì cả. Nhận lời ủy thác của người, phải làm tròn
việc. Tôi bình sinh chưa đặt bước đến Trung Thổ, cũng muốn nhân dịp này du
ngoạn một phen, vì thế đến chùa Thiếu Lâm là vậy.
Quách Tương hỏi lại:
- Thế sao
ông lại đến chùa Thiếu Lâm hạ chiến thư, muốn cùng bọn họ tỉ thí võ nghệ?
Hà Túc Đạo mỉm cười:
- Chuyện đó
cũng là từ ba gã này mà ra. Ba người này là đệ tử tục gia của phái Thiếu Lâm
Tây Vực. Cứ theo người trong võ lâm Tây Vực nói, họ đều là trong hàng chữ
“Thiên”, cùng hàng với phương trượng chùa Thiếu Lâm Thiên Minh thiền sư. Hình
như sư tổ của họ trước đây có chuyện bất đồng với sư huynh đệ, giận dữ bỏ đi,
truyền ra một phái Tây Vực Thiếu Lâm. Nguyên võ công của phái Thiếu Lâm, tổ sư
Đạt Ma truyền từ Thiên Trúc sang Trung Thổ, nay từ Trung Thổ lại truyền sang
Tây Vực, cũng không có gì là lạ. Ba người đó nghe danh hiệu tôi là Côn Lôn Tam
Thánh nên muốn đến so tài cao thấp. Họ tự hào là võ Thiếu Lâm thiên hạ vô địch,
tôi muốn xưng cầm thánh, kỳ thánh thì cũng không sao. Còn cái danh hiệu kiếm
thánh thì nhất định không chịu, không bỏ đi không được, chỉ được xưng là nhị
thánh chứ không thể xưng là tam thánh. Chính lúc đó tôi lại đang sắp sửa ra đi,
thành ra một công đôi chuyện, nên sai người đến ước hẹn sẽ gặp nhau tại chùa
Thiếu Lâm, rồi tự mình lên đường đến Trung Nguyên. Nào hay ba vị nhân huynh này
cước trình cũng thật mau lẹ, đã bôn ba đến nơi rồi.
Quách Tương cười nói:
- Hóa ra sự
việc là như thế, làm cho tôi chẳng hiểu đầu đuôi gì cả. Ba lão già giờ này chắc
đã đến chùa Thiếu Lâm, không biết nói năng làm sao đây?
Hà Túc Đạo nói:
- Tôi vốn dĩ
không quen biết gì với các nhà sư chùa Thiếu Lâm, cũng không thù không oán, sở
dĩ đính ước với họ mười ngày cốt đợi ba lão này tới, lúc đó mới động thủ. Hiện
tại hai bên đã thử tài nhau rồi, thôi cả hai người mình cùng lên, đợi tôi
truyền lại câu nói đó xong, rồi mình xuống núi.
Quách Tương nhíu mày:
- Qui củ của
mấy hòa thượng này rất chặt chẽ, không cho đàn bà con gái vào chùa.
Hà Túc Đạo nói:
- Hừ, cái
qui củ gì thối tha thế? Bọn mình cứ tiến vào, chẳng lẽ họ sẽ giết mình sao?
Quách Tương tuy là một cô gái hiếu
sự, nhưng từ khi làm quen với Vô Sắc thiền sư, nàng không còn địch ý với chùa
Thiếu Lâm, nên cười lắc đầu:
- Tôi đứng
ngoài sơn môn chờ, ông tự mình đi vào chùa truyền ngôn, như thế khỏi thêm
phiền.
Hà Túc Đạo gật đầu:
- Thế cũng
được, cái bản đàn tôi chưa tấu xong, khi trở xuống tôi sẽ đàn lại cho cô nghe
một lượt.
[1] Đoạn này không biết trích từ kinh nào nên không rõ nghĩa.
Độc giả nào biết xin chỉ giáo. Đa tạ
[2] Chó dữ chặn đường
[3] Nguyên tiếng Phạn Lanka là tên đảo Tích Lan (Sri Lanka),
cũng là tên một ngọn núi ở đây. Tích Lan là nơi mà kinh điển nhà Phật được viết
trên lá cây đầu tiên. Kinh Lăng Già tức là Lankavatara sutra.
[4] Đàn có khảm ngọc
[5] Vỗ bàn nơi suối nước là cái khoan khoái của người quân tử.
Tỉnh hay mê cũng một mình mình biết, không bao giờ quên.
[6] Vỗ bàn nơi gò cao là cái cốt cách của người quân tử. Dẫu
tỉnh hay mê cũng chỉ mình biết không cần ai hay.
[7] Hà Túc Đạo theo nghĩa đen là “nói tới làm gì”.
[8] Có nghĩa không đáng gọi là Côn Lôn Tam Thánh
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Cám ơn các bạn đã ghé thăm trang web đọc truyện miễn phí của
chúng tôi.
Với niềm say mê chia sẻ kiến thức với mọi người, chúng tôi
đã lập nên trang web này với các tiêu chí:
1.Chia sẽ miễn phí tất cả các nội dung thuộc trang
web
2.Không chèn bất cứ một bài quảng cáo nào.
3.Cập nhật liên tục các truyện mới nhất từ nhiều
nguồn khác nhau.
Nếu các bạn thích trang web của chúng tôi, hãy nhấn LIKE
nha, hành động tuy đơn giản nhưng cũng giúp chúng tôi có động lực để phát triển
web ngày một tốt hơn.
Xin cám ơn các bạn.
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------